image banner


anh tin bai
 



image advertisement

 


Thống kê truy cập
  • Đang online: 1
  • Hôm nay: 1
  • Trong tuần: 1
  • Tất cả: 1
XÃ ĐẠI THẮNG CÓ TRUYỀN THỐNG VĂN HOÁ LÂU ĐỜI ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC
Lượt xem: 995
XÃ ĐẠI THẮNG CÓ TRUYỀN THỐNG VĂN HOÁ LÂU ĐỜI ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC
anh tin bai
anh tin bai

anh tin bai

anh tin bai
anh tin bai

Làng Đại Thắng xuất hiện sớm trong cộng đồng dân đồng bằng Bắc bộ, nên còn lưu giữ đậm nét dấu ấn văn hóa dân tộc lâu đời. Nhiều tín ngưỡng hoạt động văn hóa cổ xưa còn tồn tại.

Hệ thống đền chùa miếu phủ bị chiến tranh tàn phá, thời gian phôi phai, nhưng nhìn chung vẫn còn nhiều cổ kính. Các thôn xóm miếu thờ thần bản thổ,, hậu thổ, long thần các vị thần đất bảo vệ sự bình yên trong thôn xóm. Làng Riềng xưa có cầu "thượng gia hạ trì" cầu gỗ lim nhiều nhịp bắc qua sông uốn quanh làng, trên mái ngói, hai bên thành cầu ghế ngồi cho khách bộ hành dân làng nghỉ ngơi. Sát mái ngói, bàn thờ thần Thủy Tề thần sông nước. Làng Phong Vinh ngôi phủ thờ thần Đá nằm trước một đầm nước rộng. Phía Bắc làng cát cao ven đầm nước, trên một hòn đá xanh gốc ăn sâu trong lòng đất. Dân làng thấy đó sự lạ giữa đồng bằng, nên lập đền thờ, tôn vị thần Đá là Đào Hoa công chúa trấn giữ, phía bắc làng, sắc phong "Thiên tiên trấn Bắc đĩnh dị Đào Hoa tiên chúa". Miếu còn đôi câu đối ca ngợi.

anh tin bai
anh tin bai
anh tin bai

Lẫm lẫm thương đôi truyền dị sử

Nguy nguy tử các hỉ trùng doanh.

Dịch :

Lẫm liệt xanh truyền sử lạ

Nguy nga gác tía đẹp nhiều tầng

câu đối: :

Trường lưu phiến thạch khai đường bệ

Biêt chiếm hồ thiên ẩn vân

Dịch :  

Đá xanh vững chãi xây nền móng

Miếu nhỏ ẩn mình dưới mây mưa

Cây đa, giếng nước đình làng biểu tượng đẹp đẽ, thân quen của các làng. Làng nào cũng đình thờ Thành hoàng, vị thần hộ mệnh của làng. Ngoài ra còn nhiều đền thờ các vị phúc thần, những vị thần công với nước với dân.

Bảy thôn của làng Cố Đế xưa hệ thống đền thờ Đông Hải, Tây Hải, Bắc Nhạc, Cao Sơn Đại Vương thần Quá Giang những vị thần khai sáng vùng biển những vị thần bảo hộ cho dân đi biển trị thuỷ. Ngoài ra còn thờ thần Nam Hải Đại Vương, vừa thần giúp dân đánh , bảo vệ dân chài đi biển, vừa vua Thục An Dương Vương, vị vua trị nước Âu Lạc xưa đã kháng chiến chống giặc Tần, chống quân Triệu Đà xâm lược.

Ngọc phả đền thờ của làng Cố Đế nêu sự tích Đông Hải Tây Hải Đại Vương hai con của Lạc Long Quân Âu , trong đoàn 50 người con theo Lạc Long Quân xuống khai phá vùng ven biển. Bắc Nhạc Đại Vương (tức Chàng Ba) 1 trong 50 người con theo mẹ lên núi, được vua Hùng cử về cai quản vùng này. Ba anh em đã gặp nhau tại bãi cát Cố Đế, cùng nhau bàn tính giúp dân khai phá đất đai, mở mang việc trồng trọt đánh . Khi giặc Mũi Đỏ quấy rối biên cương ba hoàng tử đã đem quân giúp vua Hùng đánh thắng giặc. Các thôn Đồng Nhất, Đồng Nhì, Đồng Lạc, Phong Vinh  đều đền

(1) Ngọc phả đền Đồng Lạc xã Cổ Đế. Cụ Kha và cụ Thử cung cấp  

thờ cả 4 vị (kể cả Nam Hải Đại Vương) đền Đồng Lạc (Lạc Nội) có đôi câu đối đầy ý nghĩa.

Sơn Hải thần minh khai Việt địa

 Tiên Long linh dị hiển Nam thiên

Dịch;

Non biển thần thiêng khai đất Việt

Tiên Rồng tổ nghiệp rộng mở trời Nam

Hay câu:  

Địa tịch trùng thiềm tân đống

 Thiên khai Bách Việt cựu sơn

Dịch;

Đất dựng liền thềm đến miếu mới

Trời sinh Bách Việt nước non xưa.

Bức hoành phi "Nam giao duật triệu" (Sáng nghiệm cái đất phương Nam) hai câu đối trên nói lên sự nghiệp khai sáng của vua Hùng, tộc Bách Việt đã xây dựng nước nhà đầu tiên.

Ngoài đền Đồng Lạc (Lác Nội), đền Đồng Nhất Đồng Nhì có đền thờ cả 4 vị Đông Hải, Tây Hải, Bắc Nhạc Nam Hải Đại Vương.

Đền Đồng Nhất trước một ngôi đền lớn bị chiến tranh tàn phá, chỉ còn cung tiền đường hậu cung mới được sửa sang lại. Tiền đường 3 gian hai chái rộng, có 4 hàng cột lớn, cột kèo đều sơn son thiếp vàng. Đền này có bức hoành phi "Triệu Đông Từ" nghĩa đền này đền Triều Đông. Nhưng quý nhất ý nghĩa nhất nói lên đền này thờ những vị thần thời Hùng Vương bức hoành phi để ở tiền đường những thần vị. Khám thờ thần vị riêng của 4 vị thần. Bức hoành phi ghi 4 chữ "Tiên Long Sơn Thuỷ" (Non nước Tiên Rồng). Thần vị ghi tên tất cả các vị thần: "Đại vương thứ nhất Đông Hải, Đại Vương thứ nhì Tây Hải, Đại vương thứ ba Bắc Nhạc cùng với 4 vị Đại vương Minh Quốc". ( Đền còn đồ tế lễ kiệu bát cống 4 đạo sắc. Đạo sắc xưa nhất (Tự Đức thứ 10 - 1857) phong cho Bắc Nhạc Đại vương, gia tặng Hùng Trấn chi thần. Sắc đời Tự Đức năm thứ 33 (1880) Đồng Khánh nhị niên (1887) chỉ phong 3 thần đời Hùng Vương sắc phong cả Nam Hải Đại vương.

Đền Đồng Nhì sát sông, ngoài đê Đại đang được lại. Đền còn bậc lên xuống sông. Đền sân rộng cột đồng trụ lớn. Đền có bức hoành phi "Ngọc Quang Từ" (Đền Ngọc Quang, nên dân còn gọi đền Ngọc hay đền Bến). đây còn nhiều đồ thờ tụ quý giá về nghệ thuật như cỗ ngai, long đình, kiệu bát cống nghệ thuật điêu khắc hoa lá cách điệu thành tứ linh. đền còn lưu giữ đạo sắc đời Tự Đức năm thứ 3 của Tây Hải Đại vương (1850). Đời Khải Định mới sắc phong 3 vị thần đời Hùng Vương 4 vị thần nước Minh (Trung Quốc), được coi người nhân đức làm nhiều điều tốt lành (Minh quốc chí nhân ý hành từ phúc tứ vị tôn thần) nhưng sự tích vẫn chưa . Đền còn 6 bia hậu thần của họ đều những văn thân quan lại triều Nguyễn.

Thôn Phong Vinh đền thờ Nam Hải Đại Vương làm Thành hoàng (sắc phong đời Cảnh Hưng thứ 44 - 1783). Các đời vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức đều sắc phong cho một vị thần Nam Hải Đại Vương, nhưng từ năm Tự Đức thứ 33 (1880) trở đi thì ngoài thần Nam Hải, còn sắc phong 3 vị thần đời Hùng Vương Đông Hải, Tây Hải, Bắc Nhạc Đại vương.

Trong dân gian, truyền thuyết về Nam Hải Đại vương một vị thuỷ thần, thần biển, thần Ông (voi) luôn giúp đỡ dân đi biển

(1) Theo các cụ trong làng thì trước ở mé sông 1 miếu thờ 4 vị thần người nước Minh (Trung Quốc) nhưng không rõ sự tích. Sau miếu bị lở xuống sông, dân rước thần vị về thờ chung tại đền thôn Nhất Cố Bản. Đời Duy Tân năm thứ 3 mới sắc phong chung cả 4 vị thần này.

dân ven biển đánh cá bình an, mùa màng mưa gió thuận hoà tươi tốt. Điều đó phù hợp với nội dung sắc phong. Nhưng văn tế và câu đối đều nói về sự tích Thục An Dương Vương các tướng đời Hùng Vương. Đây một ngôi đền còn nguyên vẹn vào loại lớn, cảnh quan hoành tráng, đồ thờ tự trang nghiêm. Cung đệ nhất khám thờ thần vị Đương cảnh thành hoàng Nam Hải Đại Vương, đặt trên bệ thờ sập chân quỳ chạm mây hỏa đao. nóc cung đệ nhị còn dấu vết chạm khắc nghệ thuật . hai đôi câu đối đẹp đầy ý nghĩa nói về nước Văn Lang Âu Lạc.

Hạo khí bái thương tân, điền địa kỷ nhi tĩnh thiên cương, bao

ảo quát khu dung thị trạch.

Chính thống tồn thanh sử, đại Văn lang nhi thác Âu Lạc, khâm

 sơn để thuỷ hữu di thành.

Tạm dịch:

Khí lành bến sông sâu, đất vững bền lâu yên tĩnh, thoáng bầu trời, rộng hình thế, chính nơi

Sử xanh truyền chính thống, thay Văn Lang, lập Âu Lạc, non Đài, nước dòng Đế, còn dấu thành xưa.

(Câu đối của Đốc Học Hải Phòng, Tiến làng Cựu Hào (xã Vĩnh Hào Vụ Bản ) Nguyễn Văn Tính soạn).

Hay câu:

Quy nộ triển hùng uy kiếm sáng thành Âu Lạc quốc

Loa thành phỏng thần tích vân long trường hộ Việt Thường đô

Tạm dịch

Nỏ móng rùa tỏ hùng uy kiếm ngựa xông pha giữ gìn quốc gia Âu Lạc Thành Cổ Loa theo thần bảo, rồng mây uốn lượn bảo vệ độ ấp Việt Thường.

(Câu đối của Huấn đạo Hàn lâm kiểm thảo cử nhân Vũ Khắc Tiệp).

anh tin bai
anh tin bai

Thôn Bái Thượng có ngôi đền đá một loại hình kiến trúc thờ cúng độc đáo của đất Nam Định. Cả huyện Vụ Bản hai ngôi đền đá, Khải Thánh đài làng Vân Cát Kim Thái ngôi đền đá làng Bái Đại Thắng. Đền Bái ba cung trùng thềm. Hậu cung gian dọc. Gian trong có khám thờ đặt thần vị của Đệ nhất Minh Lang và Đệ nhị Minh Lang. Gian ngoài ngăn cách với gian trong bằng bộ cửa sơn son thiếp vàng. Gian này đặt một cỗ long đình trên ngại thờ và thần vị. nóc chạm bong rồng chầu mặt nguyệt tứ linh sơn son thiếp vàng cổ kính: Cung giữa ba gian ngang, gian giữa rộng trùng thiềm với hậu cung, đặt hương án vuông rộng, riềm cách điệu hoá rồng. Đồ thờ tự cỡ lớn, 2 ống hương to cao tới 0,8m. Bộ thất sự bằng đồng cổ kính. Phía trước đặt hai bên bộ bát biểu hoa cách điệu thành tứ linh. Cung này 2 đôi câu đối nói lên thế đất rồng bay voi phục của ngôi đền mối quan hệ giữ hai thôn (Bái Dương Bái Thượng). Cung đệ tam trùng thềm với cung đệ nhị móng đá 3 gian giữa hai chái xây tường. Cung này bốn hàng cột đá, đỡ các hoành dọc ngang bằng đá, chạm khắc triện dắt hai đầu. Các cột đá tròn chạm quanh cột hình rồng sơn đen nổi trên nền đá trắng. Đầu rồng đối xứng chầu vào gian giữa. Mặt tiền của hiện bái đường ba gian cửa dàn bằng đá chạm. Phía trên mái hiên chạm hai rồng chầu mặt nguyệt. Ba dàn cửa ba rèm cửa võng bằng đá chạm hoa văn triện dắt, rủ xuống bốn cột vuông. Các cột vuông đều khắc câu đối. Các câu đầu, nách, bệ cửa đều bằng đá khắc chạm triện dắt. Trước đền là sân rộng tường bao cột đồng trụ. Tiền đường gian giữa đặt hương án lớn, hai bên bộ bát biểu. Trước hương án đội hạc gỗ đặt trên rùa cỡ lớn chầu đối xứng. Tiền đường bằng đá này

(1) Về 2 vị thần thờ ở đây có thể là Chàng Cả và Chàng Hai (Đông Hải, Tây Hải), cũng có thể là 2 trong 4 vị thần nhà Minh. Ngọc phả không còn nên chưa xác minh được.  

được xây dựng năm 1936 (Bảo Đại thập nhất niên). Thợ Ninh Giang (huyện Hoa Ninh Bình) nhận mẫu, chọn đá chạm rồi đưa ra xây lắp.

Cả 7 thôn của Cố Đế xưa đều đền riêng thờ chung các vị thần của cả (ngay cả làng Bái hai vị thần đó Chàng Cả Chàng Hai của vua Hùng hay hai vị thần người nước Minh "Trung Quốc "). Do đó, khi làng Đế vào đám, cả 7 thôn đều kiệu rước thần về đình làng (chỗ hợp tác mua bán ) làm lễ chung các vị thần đời Hùng khi miếu thờ 4 vị thần nhà Minh bị sụt xuống sông (đời Duy Tân, đầu thế kỉ XX) thì mới đưa về thờ chung. Điều đó nói lên tính cộng đồng làng của Cố Đế, cư dân các thôn đến trước hay đến sau đều chung một nguồn cội, một tính đoàn kết, gắn với nhau để xây dựng cuộc sống chung. Ngoài các đền trên, các làng Cố Đế còn thờ chung vị nữ thần Đào Hoa công chúa. (Làng Bái cũng thờ Đào Hoa công chúa như làng Phong Vinh) ngoài ra Phong Vinh trước thờ riêng ba vị nữ thần (Nàng Cả Dung Nghi, Nàng Hai Phương Phi, nàng Ba Trinh Chất). Làng Đế xưa còn miếu thờ ba nữ thần ba nữ tướng của Hai Trưng, vẫn còn ngọc phả tại thư viện Hán Nôm, nhưng miếu thờ bị sạt lở xuống sông.

Thị Liệu đền thờ lớn đền Bạch thờ tướng quân Phạm Bạch Hổ (còn gọi Phạm Phòng át). Phạm Bạch Hổ người Đông Châu (nay thuộc Hưng Yên). Trong loạn 12 Sứ quân, Phạm Bạch Hổ một Sứ quân nổi lên chiếm giữ Đông Châu. Sau thấy Đinh Bộ Lĩnh người nghĩa khí, được Minh quân Trần Lãm ủng hộ, thanh thế ngày càng lớn, nên Phạm Bạch Hổ về theo Đinh Bộ Lĩnh, được phong Thân vệ tướng quân, lập nhiều công trong sự nghiệp thống nhất đất nước. Khi Hoàn lên ngôi chỉ huy quân dân cả nước chống Tống, ông được phong làm Đô liệu lương thảo sứ (Đô liệu lương mục) công trong việc cung cấp hậu cần cho Hoàn chống Tống thắng lợi. Ông lấy miền Thiên Bản, Ý Yên, Nam Trực làm bản doanh lo hậu cần, lập kho lương, do đó sau khi ông mất, làng nào kho lương đều lập đền thờ (Vụ Bản 5 đền, Nam Trực 2 đền, Ý Yên 1 đền).

Đền nhiều dấu tích nghệ thuật điêu khắc đời thế kỉ XVII, XVIII.( Tiền đình được tôn tạo vào năm Gia Long Kỷ Mão (1819) nhiều mảng chạm bong và chạm lộng nghệ thuật Nguyễn đẹp. Đền Bạch làng Thị Liệu câu đối ca ngợi công đức của ông:

Thiên giáng thánh nhân bình Bắc địch

Địa lưu tiên tích trấn Nam thiên.

Tạm dịch:

Trời sinh bậc thánh bình giặc Bắc

Đất giữ tích xưa trấn trời Nam.

Lại có câu đối nói lên công tích của ngài âm phù cho vua đánh thắng giặc Chiêm Thành.

Ngư đầu hộ độ Chiêm địa

Điểu tích truyền linh Việt hữu thiên(2)

Dich:

Thuyền đi giúp, Chiêm không đất

Buồm đậu chim đưa, Việt trời.

(1) Hiện có 2 tượng phổng quỳ được Bảo tàng tỉnh trưng bày

(2) Tương truyền khi vua Lý đi đánh giặc Chiêm Thành quấy rối biên cương phía Nam, thuyền gặp bão bị thủng, nước tràn vào, ngài đã hoá thành cá nhảy vào thuyền bịt chỗ thủng, cứu được nhà vua. Khi chiến thắng trở về, đoàn thuyền của vua Lý lại gặp sương mù, mất phương hướng. Ngài lại hóa thành chim biển vừa bay vừa đậu trên cột buồm, chỉ hướng cho thuyền thoát khỏi sương mù, về đến kinh đô an toàn. Cẩu đối trên nói về hai sự tích này  

Làng Thi Liệu hai đền thờ phúc thần là Trưởng công chúa Thái Đường, một ngay Thi Liệu, một thôn Miễn Hoàn. Thái Đường là Trưởng công chúa của vua Trần Thái Tông. Chồng con trai của đều hi sinh trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Khi vua Trần chính sách cho các vương hầu công chúa, cung phi đem gia tập hợp dân xiêu tán khai hoang vùng ven sông, ven biển, thì Thái Đường cùng gia chiêu mộ hơn 50 người đã khai phá vùng đất ven sông Bắc của Đô Liệu, lập ra một đại điền trang hơn trăm mẫu đất tốt, bãi sông phơi lưới , chợ để mua bán ven sông, trại Thủ (đầu đại điền trang), trại (cuối đại điền trang) để canh gác bảo vệ. Không may công chúa Thái Đường mắc lỗi, triều đình tịch thu toàn bộ điền trang, biến thành ruộng quốc khố. Công chúa Thái Đường đi tu chùa Nghĩa , (gần Lạc Quần, nay thuộc Xuân Trường). Ít năm sau vua thương tình tha lỗi, trả lại điền trang cho công chúa. Công chúa cho dân số ruộng đất đó để làm ruộng đất cộng của làng chia nhau sản xuất. Dân nhớ ơn , đặt tên Trại Miễn Hoàn (miễn kỳ tội, hoàn kỳ điền) để kỉ niệm sự kiện này. Khi mất dân lập đền thờ (. Thái Đường được dân quý mến gọi là Quốc Mẫu. Nhà vua đã phong sắc cho "Quý Mỹ Tiết Hạnh Dung Quang Quốc Vương".

Đền Quốc Mẫu thôn Miễn Hoàn ngay bờ sông. Trong đền tượng của bốn tượng nàng hầu cổ kính. Đền đôi câu đối làm năm Kiến Phúc Giáp Thân (1884) ca ngợi công lao khai khẩn lập ấp của .

(1) Sự tích ở bia đá đặt tại đền bà Quốc Mẫu. Đây là một tấm bia ghi toàn bộ ngọc phả về sự tích bà Quốc Mẫu.

Hệ xuất thánh thần chiêu tập dân khẩn khai lưu hiển tích.

 Phúc di Độ ấp) diễn phiên thịnh đại tác hoan thanh.

Dich:

Thần thánh ra đời, chiêu dân khẩn hoang, truyền lưu tích sáng.

Phúc lộc làng Đô, dân đông của lắm, vang tiếng hát ca.

Trong làng Thi Liệu cũng đền thờ Quốc Mẫu con trai Khang Quốc Công. Ngoài ra còn đền thờ ông Hậu Hoằng, tương truyền một gia của Quốc Mẫu giúp điều khiển việc khai dân lập ấp. Khi mất, ông được dân tôn thờ làm phúc thần.

Đình làng Thi Liệu đặt giữa làng trên một bãi đất rộng nhìn ra đê. Khi làng vào đám các vị thần đều được rước ra đình, cả làng mở hội đồng vui rồi lại rước kiệu về đền.

Làng Thiện Đăng có quần thể đền chùa phủ nguy nga, trước hồ rộng, cây to bóng mát, cảnh quan tín ngưỡng sầm uất. Đền làng cổ kính, nơi thờ Triệu Việt Vương Quang Phục làm thành hoàng làng. Theo ngọc phả, Triệu Quang Phục giúp Bí đánh giặc Lương lập nước Vạn Xuân, đưa lên ngôi gọi Lý Nam Đế. Khi Nam Đế mất, Triệu Quang Phục xưng vương tiếp tục lãnh đạo cuộc kháng chiến bảo vệ đất nước. Khi Triệu Quang Phục tổ chức nhân dân chống giặc Lương đầm Dạ Trạch (Hưng Yên), lập đồn sở đất Thiện Đăng. Sau Phật tử làm phản, Triệu Việt Vương đã chạy về vùng này chống lại, Thế cùng, Triệu Việt Vương rút về Độc Bộ (Ý Yên) nhảy xuống cửa biển Đại An tuẫn tiết. Dân chài Thiện Đăng ghi nhớ công lao lập đền thờ Đền được tôn tạo nhiều lần. Đền còn nhiều dấu tích kiến trúc điêu khắc đời Trung Hưng. Đền đôi ngựa gỗ bọc mây đan sơn mầu trắng thành ngựa bạch một con mầu hồng. Hai

(1) Làng Đô Liệu đến đời Nguyễn Tự Đức mới đổi thành Thi Liệu.

cỗ kiệu đời thế kỷ XVIII rất cổ kính được giữ gìn còn như mới. Các hoành phi, câu đối, cửa võng, hương án của đền còn nguyên vẹn, tạo cho không gian thờ cúng thật trang nghiêm. Quý nhất tượng đồng vua Triệu Việt Vương đặt trong khám thờ có kính. Tượng đúc liền bệ, đội bình thiên, hai tay để trên đầu gối, mình mặc long bào đúc nổi hoa văn, tượng cao tới 1,6m, nặng 500kg. Câu đối trong đền còn giữ nguyên vẹn gần một chục đôi, ca ngợi công tích của Triệu Việt Vương, tiêu biểu là hai đội:

Long thuy thiên phù Lương tẩu Bắc

Diên thành địa cát tồn Nam

Dịch:  

Rồng thiêng giúp đời đuổi giặc Lương cút về cõi Bắc

Diên Thành cắt đất nhường họ còn giữ phương Nam

Hay câu:

Nhị thập tam niên thiên hạ đế

Ức thiên vạn tải Việt Nam thần

Dịch:  

Hăm ba năm trị vì đất nước

Ngàn vạn đời làm thần Việt Nam

Đền còn giữ nhiều bia đá, trong đó bia đời Cảnh Hưng năm thứ 16 (1755) nói về các hậu thần của đền, một tấm bia chạm khắc đẹp.

Đền 3 cung. Hậu cung đặt tượng trong khám thờ. Phía trước đặt ngại lớn trên hương án đẹp, có 2 đài quá cỡ lớn cao tới 70cm, đường kính 30cm, đôi song bình cỡ lớn lam làm vẽ mai hoa khổng tước. Trùng thềm với cung giữa một bức cửa võng chạm lộng tứ linh. Cung đặt hòm sắc. Theo các cụ thì trước đền có nhiều sắc nhà , nhưng nay bị thất lạc, chỉ còn lại 4 sắc phong triều Nguyễn, sớm nhất sắc Thành Thái năm thứ nhất (1889) - đôi câu đối làm năm Thành Thái Đinh Dậu (1897).

          Lương tướng tuỳ long trảo Bắc

          Lý binh không vọng mã đề Nam

Dich: :

Tướng Lương mắc phải nỏ rồng chạy dài về phương Bắc

Quân ruổi rong ngựa vang vọng khắp trời Nam

Hay câu:

Lực dũng tán Bắc Lương long trảo thần uy truyền quốc sử

Giới phân toàn Nam Diên thành tuyên thệ tráng đô thành

Dich:

Sức mạnh nỏ móng rồng đuổi giặc Lương về phương Bắc rạng rỡ oai phong thần trong quốc sử

Phân giới Diên Thành cùng Hậu Nam Đế lời thề vang

vọng khắp hoàng đô

Cung giữa hương án lớn trên đặt hai cỗ ngai. Câu đầu chạm trổ đẹp kiểu Nguyễn hoa cúc triện dắt.

Cung ngoài tiền đường năm gian hai chái 6 kèo cột trùng tu đời Thành Thái năm 1900. Gian giữa có bức hoành phi, phía trên chạm lưỡng long triều nguyệt, phía trước chạm phượng ngậm thư, nghê rùa, giữa 4 chữ: "Long trung chính đức". Dưới bức hoành phi cửa võng chạm khắc cành nho dắt chữ triện. Toàn bộ cột kèo hoành đều sơn son vẽ rồng vàng. Hai bên đặt hai cỗ kiệu bát cống kiệu bành đời .  

Đây một ngôi đền đẹp còn nhiều đồ thờ tự quý di tích kiến trúc, điêu khắc đời Trung Hưng.

Bên cạnh đền Triệu Việt Vương phủ thờ Tứ vị Hồng nương. Theo ngọc phả viết năm Hồng Phúc nguyên niên (1572) còn lưu giữ tại phủ, thì đời Trần hai đội trưởng thuỷ quân Đinh Thuyên Nguyễn Phụng được nữ thần đền Càn Hải (làng Phương Cần xã Quỳnh Phương, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An) Nam Hải tứ vị Hồng Nương phù trợ đánh thắng giặc Toa Đô, nên rước Tứ vị Hồng Nương về thờ lập phủ Thánh phía Tây Bắc làng (nay là trạm Đại Thắng), sau bị chiến tranh tàn phá, phủ được chuyển vào giữa làng hiện nay. Phủ mới trùng tu lại, nhưng còn nhiều di vật văn hoá nghệ thuật Trung Hưng Nguyễn Phủ được xây dựng lại 3 gian hai chái, phía sau có hậu chẩm. Hậu chẩm bức cửa võng cỡ lớn cách điệu tứ linh, phía trên lưỡng long triều nguyệt. Gian giữa hương án lớn, đặt cỗ ngai ỷ nghệ thuật Lê, có thần vị của Nam Hải Càn nương. Hai bên đặt 4 kiệu long đình phía trước hương án đôi hạc thờ kiểu Nguyễn đặt trên mình rùa, đôi hạc cao tới 3m, điêu khắc sơn đẹp .

Ngoài ra phủ thờ còn 1 kiệu võng đòn khiêng đầu chim phượng, có 2 đòn ngang 4 người khiêng, có 1 kiệu bát cống 1 kiệu long đình kiểu Trung Hưng thế kỷ XVII.

Phủ còn đôi câu đối nói lên sự tích của Nam Hải Càn Nương

Nam quận ngật sùng từ, linh tích dao hàm

                                                  Càn Hải nguyệt

Bắc thiên chung tủ khí, trinh tâm viễn thụ

                                                 Tống triều phong

Dich:

Đất Nam sừng sững đền thờ, dấu thiêng bao

                                                            trùm bóng trăng Càn Hải

Trời Bắc lung linh tiết khí, lòng trinh chuyển

                                                         động mây gió Tống triều).

Làng An (làng Ín) xưa đền thờ 3 vị thần Cương Kiệt, Tiến Quốc Cương Nghị. Đền bức hoành phi "Tam linh quyến hữu" (Ba thần thiêng mang phúc lành cho dân). Đền có tiền đường hậu cung. Hậu cung hai gian dọc mái hiên bổ trụ. Thêm đá chạm rồng. nóc chạm triện dắt, phù vân. Hai nách chạm hoa cách điệu chim phượng - kèo vẩy hai rồng - Hậu cung đặt một hương án chân quỳ dạ nghệ thuật , trên đặt hai ngai của nhị vị công chúa nhà Mạc. Tiền đường hương án thờ ba vị, hai bên đôi hạc gỗ đẹp, cao 2,5m. Đồ thờ tự còn khá đầy đủ. Tương truyền đền thờ hai công chúa ba vị tướng nhà Mạc, đánh trận bị thua về ẩn tại đây, xây dựng thành trại Ín. Nhà Trung Hưng, cho quân vây bức, ba vị tướng đường cùng nhảy xuống giếng tự vẫn. Dân lập đền thờ, gọi vua Ín. Làng câu ca:

Nhà ai thóc thì phơi

Đến giỗ vua Ấn thì trời lại mưa.

Đền còn lưu giữ chín đạo sắc đời Nguyễn, sớm nhất năm thứ

(1) Ngọc phả ghi sự tích cung phi nhà Tống họ Triệu tên là Hồng Đại, sinh với Tống Vũ Đế hai con gái là công chúa Hồng Mai và Hồng Hạnh, nuôi một nữ tì là Hồng Thị. Giặc Nguyên chiếm Trung Quốc diệt nhà Tống. Vũ Đế đường cùng trầm mình chết. Hồng Đại và ba con nhảy theo nhưng không chết, bám vào được một cây to, dạt vào một ngôi chùa ở Càn Hải (Nghệ An). Hồng Đại tự nhiên có mang, hổ thẹn trẫm mình chết, ba con cũng nhảy xuống biển chết theo, linh thiêng, được phong là Tứ Vị Hồng Nương, lập đền thờ ở cửa Còn (Càn Hải, Quỳnh Lưu, Nghệ An).

mười đời Tự Đức (1857), phong thần cho ba vị: Cương Kiện Khuông Quốc Trung Đẳng Thần.

- Cương Nghị Tôn Thần

- Tiến Quốc Tôn Thần.

Đền một bài thơ ca ngợi cảnh thanh bình của dân làng Ấn:

Nhất phương tự mệnh thừa thiên lung

Toàn ấp an sinh tụng thánh công

Hiệu đẳng tam hoàng thượng thế

Công cao ngũ đế trạch dân.

Dịch:  

Một vùng trời đẹp đất an

Dân ấp ghi công đức thánh thần

Sống cảnh yên bình nơi trần thế

Khác chi đời Ngũ Đế Tam Hoàng.(1)

Làng Nguyệt Mại làng Lạc Thiện đều đền thờ Thừa tướng Nam Việt Lữ Gia, một người kiên quyết chống giặc Hán xâm lược cuối thế kỷ II trước Công Nguyên. Lữ Gia lãnh đạo cuộc kháng chiến. Lúc đầu quân Hán mạnh, Lữ Gia phải rút về vùng Việt Trì, Lập Thạch (Phú Thọ) đánh thắng giặc. Sau nội gián, Lữ Gia bị thương, phải lui quân về tới núi Gôi thì rơi đầu chết. Dân lập đền thờ.

Đền Nguyệt Mại xưa một ngôi đền lớn, kiến trúc kiểu chữ Môn hai bên giải . Tiền đình bảy gian, sân đắp voi ngựa. Đền năm cỗ kiệu. Làng vào đám ba năm một lần. Đám hội lệ thi xôi . Mỗi giáp cử người nuôi . lễ được gọi "Ông ". giáp phát

(1) Có người cho rằng bài thơ này ẩn ý nơi đây Tam Hoàng là ba vị Hoàng Tử nhà Mạc, ngũ đế là vua thứ năm đời Mạc. Thực ra không phải vậy. Nội dung bài thơ ca ngợi cảnh thanh bình của đất Tư An sánh với thời hoàng kim sống yên hạnh phúc như đời Tam Hoàng - Ngũ Đế của lịch sử Trung Quốc.

động dân nuôi gà trống to, đến ngày lễ thì chọn để làm lễ tế thần. Gà được chọn làm lễ phải cân nặng, chân to, đầu công, mình cuốc. không được cắt tiết phải chọc tiết lỗ nhỏ, làm lông xong thì thay phiên nhau múc nước sôi đổ lên mình khi nào chết thì thôi. Mỗi giáp một mâm xôi một con ra thi. Mâm xôi to, rền, giáp nào cũng mật không cho giáp khác biết. lần phải phá cổng mới khênh được mâm xôi vào đền . Trong nhân gian phương ngôn:

Bánh làng Gôi, xôi làng Mại.

(Bánh dầy làng Gối, xôi làng Mại đều nổi tiếng đất Thiên Bản xưa, đều lễ vật thờ cúng thần Lữ Gia).

Thực dân Pháp lập bốt Đình Hương đã phá đền xây bốt. Nay đền mới trùng tu. Làng Nguyệt Mại còn đền thờ hàng nước, người gặp Lữ Gia khi rơi đầu chết. Đền ba gian một hậu cung nhỏ. Đền mới xây năm Mậu Ngọ (1918) đời Khải Định. Trong đền đôi câu đối:  

Nhất phiến trung can Côi Lĩnh tại

 Thiên thu di cốt Nguyệt Giang từ.

Dịch:  

Một tấm lòng trung núi Gôi hiển hiện

Ngàn thu di cốt sông Nguyệt giữ gìn

Câu đối này biểu dương thần Lữ Gia, đồng thời nói lên sự gắn giữa núi Gôi làng Nguyệt Mại.

(Phải chăng câu đối này của đền thờ Lữ Gia làng Nguyệt Mại ).

(1) Theo các cụ trong làng, ngoài việc thi mâm xôi gà, làng còn lệ vớt đũa để dâng lên tế thần. Làng trồng một bụi tre ở đồng Vụng Chay, hàng năm họ Dương được vinh dự nhận trách nhiệm chặt tre ở đây để vót đũa rồi mời thợ sơn làng Hổ xuống sơn đũa. Ngoài ra trong lễ hội còn đốt cây bông (pháo hoa).  

Đền làng Lạc Thiện cảnh quan đẹp, thoáng và tĩnh phía Tây làng. Đền còn giữ được nhiều đồ thờ tự quý giá, hoành phi, câu đối trang nghiêm lộng lẫy. Đền ba cung, làm trên đất cao nhìn ra sông Hùng Vương. Hai chái xây kín vọng lâu dưới hai vị thần tướng. Thềm cao lát đất thành khung. Ba gian giữa lòng rộng 7,5m, thềm rộng 1,65m. Cửa chấn song con tiện, bộ cửa gian giữa 6 cánh, hai gian bên 4 cánh. Gian giữa đặt long đình thờ, đồ thờ tự đầy đủ. Cửa võng tứ linh cỡ lớn, trên treo bức cuốn thư khảm trai làm năm Tự Đức thứ 17 (1863) "Hách quyết thanh" (Tiếng tăm lừng lẫy). Phía dưới một bức liễn khảm trai đề 4 câu thơ của Linh Sơn Cử nhân Lương Quý làm năm Khải Định thứ 7 (1922). Bên trái bức hoành phi "Nam đẩu bình" bút tích của cụ Nghè Cựu Hào Nguyễn Văn Tính, bên phải bức hoành "Khí quán nhật nguyệt" (Khí tiết sáng ngời mãi mãi).

Trước long đình đôi hạc gỗ cao 3m, hai bên đề bát biểu lộng lẫy. Tiền đường tới 10 câu đối của các bậc danh nho trong vùng như Tiến Phạm Văn Nghị, tiến Khiếu Năng Tĩnh, tiến Ngũ Văn Tĩnh, cử nhân Lương Quý, phó bảng Đỗ Văn Toại, cử nhân Đình Thưởng v.v... Các câu đối này đều ca ngợi nghĩa khí chống giặc Hán, bảo vệ nước Nam Việt của Thừa tướng Lữ Gia mối quan hệ giữa đền Lạc Thiện đền Côi Sơn đều thờ Lữ Gia, trong đó câu đối làm đời Thành Thái (1895):  

Côi Sơn danh tích do truyền cổ

 Lạc thổ bao phong thuỷ tự kim

Dịch:  

Danh tích đền Gôi truyền tự cổ

Sắc đền Lạc Thiện mãi ngày nay.

Cung trong 3 gian dọc, đồ thờ tự rất trang nghiêm lộng lẫy có khám thờ lớn trong đặt cỗ ngai thần vị của thần Lữ Gia. Đặc biệt đôi kiếm gỗ chuỗi chạm đầu phượng rất đẹp.

Làng Nguyệt Mại và làng Lạc Thiện khi vào đám thường rước kiệu thần giao hiếu giữa hai đền.

Làng Đống Xuyên có đền thờ hai vị thiên thần Lôi Công, Cương Nghị Phi Phương công chúa. Trước Phi Phương có phủ thờ riêng. Bà là một cung phi của vua người họ Bùi hiệu Diệu Đức. lộc điền vua ban. Khi về nghỉ tại làng, đã đem ruộng tặng cho dân làng làm ruộng công. Khi mất, dân lập phủ thờ. Làng hội hoa đăng vào đêm mồng 7 tháng 4 hàng năm để tưởng nhớ đền chúa gỗ 8/4. Hội tổ chức thi rước đèn. Các nhà dùng nứa buộc thành đèn hình vuông quả , ngôi sao, quả khế hình tròn xếp nếp đều thắp nến. Ngoài ra còn đèn kéo quân đặt phủ Bà. Dân làng trống dong cờ mở, tổ chức tập trung đền làng, tay cầm đèn đi vòng quanh làng theo nhịp trống, vừa đi vừa reo vui mừng rồi về tập trung tại phủ . Dân chọn những đèn đẹp để chấm thưởng.

Đền 2 cung. Tiền đình 5 gian rộng nơi tế lễ họp hành. Gian giữa bức hoành phi 'Trấn hanh phúc" (Sấm ran đem phúc đến)(1)

Cung trong một hương án đời thế kỷ XVIII. Làng Đống Xuyên và Lạc Thiện có năm vào đám, mùa màng thu hoạch tốt đều tổ chức rước giao hiếu (hai làng này thờ chung một vị thần Cương Nghị Đại Vương).

Làng Thượng Linh đền thờ 2 vị tướng đời Hùng Uy Lôi Đại Vương, Uy Linh Đại Vương Phối Đạo Đại Vương tướng của Hai Bà Trưng, đều con cháu của thần khai cả Trần Hinh..

(1) Trấn: Tượng trưng cho sấm. Đền thờ Lôi Công (Tam vị Lôi Công) là thần sấm sét có sấm tức có mưa làm cho mùa màng tươi tốt, đem phúc lộc lại cho dân. Đền dựng năm Tự Đức thứ 7 (1854) trùng tu năm Thành Thái Tân Sửu (1901)  

Làng Đông Linh, gốc làng Thượng Linh phát triển ra nên cũng thờ các vị thần như Thượng Linh. Làng Thượng Linh trước miếu thờ 2 nữ thần, nay đưa về thờ chung tại đền làng.

Đền Thượng Linh hồ rộng, cây cổ thụ sum suê, sân rộng, tọa lạc tại phía Tây làng. Tiền đình mới được sửa sang. Cung đệ nhị đồ thờ tự đầy đủ, lộng lẫy, cổ kính. hương án đời , nhiều sắc phong đời - Nguyễn.

Việc thờ thần của các làng Đại Thắng phản ánh lịch sử lâu đời, dân người Việt từ thời Lạc Long Quân - Âu Lạc về khai phá vùng biển, từ thời Hùng Vương thứ 18 đất Việt Trì - Phong Châu, Yên Tử xuống đây khai phá, vừa làm nghề chài lưới sông biển, vừa trồng lúa nước, hoa mầu dựng nên làng trù phú ngày nay.

Bên cạnh các đền miếu thờ những người công với nước với dân làng, trong các dòng họ, từng gia đình đều lập nhà thờ họ, bàn thờ tổ tiên, tìm về cội nguồn huyết thống. Nhiều dòng họ còn từ đường cổ kính (nhà thờ họ) của Đại tông hoặc chi phái, hàng năm con cháu trong dòng họ đều tập trung lễ tổ. Đến tiết Thanh minh tập tục đi tảo mộ, các bậc huynh trưởng hướng dẫn con cháu nhận phần mộ tổ tiên. Từng gia đình bàn thờ cha mẹ ông người thân hàng năm cúng giỗ. Gia phả các dòng họ bị thất tán nhiều trong chiến tranh, gia đình ly tán. Hiện nay nhiều dòng họ đang tìm cách khôi phục lại. Các dòng họ nhân tố tích cực để tạo dựng làng . Do đó, khi làng tế lễ thành hoàng làng đều lệ phối hưởng các vị gia tiên dòng họ các vị hậu thần công đóng góp với làng . Đó chính đạo "uống nước nhớ nguồn" (ẩm thuỷ nguyên) của nhân dân các làng Đại Thắng.  

(1) Trước đây 3 vị thần của làng có 3 đền thờ riêng, nay hợp tự tại đền chung.

Xóm Phong Vinh họ lớn nhất. Họ nhà thờ đại tông của bốn chi. Đây một dòng họ học, nhiều người đậu đạt từ đời Trung Hưng thế kỉ XVII, XVIII, đồng thời cũng một dòng họ nhiều thầy thuốc giỏi. Nhà thờ gồm ba gian cổ kính, còn nhiều câu đối, trong đó có câu đầy ý nghĩa:

Công đốc nguy nga sơn đẩu vọng

Căn nguyên thâm cố bản chi phần

Dich:  

Công đức sáng ngời như sao đầu núi

Cội nguồn to nhánh bám chặt đất màu

Họ còn lưu giữ được tộc phả ghi chép khá đầy đủ công tích các bậc tiền bối của dòng họ, góp phần tạo nên truyền thống tốt đẹp nhiều đời cho dòng họ.

Làng có các họ lớn , Phạm, Trần, Nguyễn Đô, Phạm, Bùi. Đông nhất họ , cả bảy thôn đều họ một dòng họ thành đạt nhiều về khoa cử cả văn lẫn võ qua các thời đại xưa và nay. Nhiều chi họ còn tộc phả nhà thờ cổ kính. 4 họ , Phạm, Trần, Nguyễn, có nhà thờ Đại tông. Họ Nguyễn mới lập lại gia phả ghi chép khá đầy đủ và hệ thống nhiều đời.

Nhà thờ Đại Tông họ () nguy nga đồ sộ, đồ thờ tự trang nghiêm, còn có sắc phong, kiệu bia từ đời Cảnh Hưng đặt ở nhà thờ cũng như nhiều bia hậu đời - Nguyễn đặt chùa đền. Họ nhiều vị làm quan đời Trung Hưng được phong tước hầu như Hoằng Tín Đại Phu Thái bộc tự khanh Tham đốc quân vụ Đông Trung Hầu hay Tán trị thừa chính sứ Lạng Sơn Trung Thọ hầu đặc biệt tướng quân Dự Mỹ Đình Dự làm chỉ huy sứ thông sứ Kiêm thương huyện Kim Bảng đời vua Quang Trung Quang Toản. Các vị này công xây dựng đền chùa làng, đã đúc chuông chùa Thần Quang chùa Ngọc Tân văn bia văn chuông còn ghi lại. Ngoài ra còn có vị làm quan được phong tước quận công như Phúc Năng, tứ phẩm Lang trung Công Mỹ, các tri phủ Công Hoán, Công Phúc, Công Hiệu đời Trung Hưng. Chứng tỏ họ Cố Bản xưa một họ lớn tiếng tăm trong vùng. Nhà thờ còn đôi câu đối nói lên điều đó.

Sinh vi tướng hộ quốc an dân lưu danh thiên

                                                                         cổ tại

Hoá hiển thánh thông minh chính trực tôn phong

                                                                   vạn niên thanh

Dich:

Sống làm tướng giúp dân giữ nước, tên ghi

                                                                 muôn thuở

Thác hoá thần linh thiêng chính trực, danh

                                                               tiếng ngàn đời

Làng Thi Liệu gần hai chục dòng họ như các họ , Phạm Đoàn Nguyễn Trần, Cao Hoàng, Đoàn, Bùi, Đặng Dương Lưu. các nhà thờ họ , Đoàn, Phạm các họ hầu như không còn giữ được tộc phả.

Làng Đình Hương 8 dòng họ Đỗ, , Trần, Nguyễn, trong đó họ Đỗ là đông nhân khẩu nhất. Họ Đỗ nhà thờ cổ kính trong một khuôn viên đẹp tam quan, gác đặt bia đời Cảnh Hưng và tộc phả còn nguyên vẹn, lưu giữ được nhiều sắc phong đời Trung Hưng. Họ Đỗ làng Đình Hương gốc từ làng Hương Nhi (thế nên đặt tên làng Đình Hương) ra đây khai phá lập trại ấp. Nhà thờ câu đối nói lên đây dòng họ vọng tộc.

Tiền phong , hậu phong Hầu, luỹ triều sắc mệnh

Ấp xưng thần, gia xưng tổ, cổ tinh linh

Dịch:

Trước phong , sau phong Hầu, các triều sắc tặng

Làng tôn thần, họ tôn tổ, muôn đời sang sao

Làng Nguyệt Mại 15 dòng họ Đỗ , Nguyễn Phạm Trương, Dư, Trần Hồ, Lưu, ... Hai họ Đỗ Vương có nhà thờ cổ kính, nhất là họ Đỗ. Họ Đỗ một họ lớn, nhiều người đỗ đạt cao trong đó Phó bảng Đỗ Văn Toại. Nhà thờ tộc phả ghi chép đầy đủ công tích các bậc tiền bối nhiều đôi câu đối có ý nghĩa giáo dục truyền thống, như câu:

Tổ huấn nhất thiên lại thế bảo

Thiên hồi lưỡng mệnh thất chi xuân

Dịch:

Tổ dạy học hành làm của báu

Trời cho hai nhánh bảy cành xuân

Làng Lạc Thiện có các dòng dọ Lưu, Nguyễn, Phạm, , Trần, Bùi, Đỗ. Họ Lưu đông nhất từ Bái Dương (Nam Trực) di cư sang đây cùng các họ lập trại, sau thành làng. Lương giáo đoàn kết trong họ.

Làng Đống Xuyên, vốn trước trại, các họ Đoàn Tam giáp Hào Kiệt đổi thành họ Nguyễn, họ Bùi giáp Nhì cũng đổi thành họ Nguyễn sang đây lập trại, đã được 17 đời. Họ Phạm vốn dòng dõi Tiến Phạm Hùng Vân Bảng (Liên Minh) từ đời thứ 5 đổi thành họ . Đời Minh Mạng (1819-1840) dân làng thiếu thuế được ông Đức Nhận đóng thuế cho dân, dân tôn làm hậu thần. Ông Đình Hiển công canh tân làng Đống Xuyên, soạn hương ước cho làng. Ho thành đạt nhiều về đường học hành khoa cử, phát huy được truyền thống hiếu học của cụ Nghè Hùng xưa.

Làng Thiện Đăng theo truyền ngôn 7 gia đình sau trở thành thất tổ gia tiên về lập ấp tại đây, làm nghề chài lưới đánh , hiện nay phát triển thành 15 chi họ (Nguyễn Phạm Đoàn, Đào, Đỗ, Dương, Bùi, Ngô, Đinh...) đông nhất họ họ Nguyễn đây cũng làng nhiều dòng họ khoa cử thành đạt tiêu biểu là họ , rất nhiều người làm nghề dạy học từ thời phong kiến cho đến ngày nay. Ngoài ra, các họ cũng nhiều người làm thầy thuốc hoặc đi buôn thuốc Bắc, thuốc Nam nhiều tỉnh, nhất vùng Thanh Hoá.

Làng Đông Linh 6 họ Trần, Đỗ, Phạm, Nguyễn. Đông nhất họ Trần.

Làng Thượng Linh 4 họ Trần, , Đào, Nguyễn theo Trần Hinh từ Yên Phụ (Hải Dương) dời cư về lập ấp từ đời vua Hùng thứ 18, sau này thêm họ Đoàn họ Đỗ.

Việc tương trợ, giúp đỡ nhau trong cuộc sống thường ngày nhằm xoá đói giảm nghèo, nâng cao tinh thần tương thân tương ái, động viên khuyến khích con em học tập, thờ phụng tiên tổ để phát huy truyền thống những nét đẹp trong văn hoá dòng họ, được bảo tồn lâu đời các làng Đại Thắng. Con cháu đi làm ăn xa quê đều luôn nhớ về quê hương, gia tộc, thường ngày giỗ tết đều về thăm.

Hoà nhập với đời sống tinh thần tín ngưỡng dân gian, các tôn giáo phương Đông được truyền lâu đời ngày càng sâu sắc vào các làng người Việt, trong đó vùng quê Đại Thắng. Đạo Phật, đạo Lão đạo Nho được lần lượt truyền đến, thâm nhập vào đời sống hội của các làng sau cùng đạo Thiên chúa từ phương Tây tràn vào.

Đạo Phật phát triển sớm nhất, hầu như tất cả các làng đều chùa. Chùa Nam Lai chùa thôn Nhất tương truyền được lập từ đời . Nhiều chùa còn dấu ấn được xây dựng từ đời Trung Hưng như chùa Ngọc Tân Đồng Nhì, chùa Thần Quang Đông Nhất, chùa Ngọn ở Nguyệt Mại, chùa Diệu Nghiêm An, chùa Thần Quang ở Thi Liêu.

Chùa Ngọc Tân Đồng Nhì làng Cố Bản, thường gọi chùa Bến Ngọc, nằm ngay bờ sông Đào xây bến gạch, thuyền ghé bến vào chùa thuận lợi.

Chùa bức hoành phi Ngọc Vi Tân" (Ngọc bến" đôi câu

Ngọc hướng hôn cù khai giác lộ

Tân tòng thần hải chướng hồi lan

Dịch:

Ngọc chuyển đường sang đường sáng

Bến theo triều sớm cản sóng to

Chuông chùa Ngọc Tân treo trên gác chuông tam quan nguy nga lộng lẫy. Chuông được làm từ năm Cảnh Thịnh Bính Thìn (1796) đời Tây Sơn, một trong 7 chuông đời Tây Sơn còn lại trên đất Vụ Bản. Bài minh của chuông đoạn khắc:

"Thiên Trường phủ, Nam Chân huyện, Cổ Đế , Nhị thôn, Hội chủ Chỉ huy sứ kiêm Trương huyện Kim Bảng Dự Mỹ Vũ Đình Dự Từ khi xây lầu đến nay, Cổ Đế huyện Nam Chân đã một ấp lớn vậy. Bảy thôn đều xây chùa. Mười năm trước đây, trong ấp Vũ tướng công nguyên Tán trị Thừa chính sử Lạng Sơn đã làm lầu gác để chuông đã đúc 2 quả chuông treo chùa Thần Quang (thôn Nhất) và chùa Ngọc Tân". chùa Ngọc Tân còn bia hậu của vợ chồng vị Thừa chính sứ họ này.

Làng Bái có chùa Nam Lai, tương truyền từ đời , nay mới trùng

tu, câu đối .

Nam Lai biển linh kim cổ

Bái thượng thôn hương hỏa phụng thờ.

Làng Nguyệt Mại có chùa Ngọn (Ngọn Linh tự) còn hệ thống Phật cổ kính hệ thống bia hậu đời Vĩnh Tộ, Cảnh Hưng Gia Long (Thế kỷ XVII-XIX). Bia Vĩnh Tộ năm thứ 10 (1628) một tấm bia đá chạm khắc đẹp của vị tướng thần Vũ Công Phúc Hoàng Thị Lan người làng Thời Mại cúng 4 mẫu ruộng vào chùa. Bia Cảnh Hưng năm thứ 15 (1754 do Tiến Thanh Oai Ngô Thì Sĩ soạn, ghi Thái giám Hoàng Thọ Đỗ Công Hoàng người làng Thời Mại cúng vào chùa 50 lạng bạc. Bia hậu thần khắc chạm đẹp, to nhà bia giữa sân chùa do 1 vị Huấn đạo đời soạn năm Gia Long Giáp Tí (1804).

Bầu hậu là một hình thức cúng tiền ruộng vào chùa của những người không con trai để nhà chùa thắp hương cúng giỗ. Nhiều chùa có lệ cúng hồn chúng sinh tại Hàn lâm sở, hàng năm vào rằm tháng Giêng tháng 7, thể hiện lòng nhân từ bác ái của Phật tử.

(1) Chuông còn ghi: "Hưng công chư vị khâm sai sơn Nam xứ Trấn thủ Đại Đô đốc Thọ Lộc hầu Nguyễn Văn Thọ, Cung phiên tự nội thống trung quân Lương Thuật, Đô đốc Nguyễn Lộc Hầu, Nguyễn Văn Lộc góp mỗi người 20 quan Hộ bộ hữu thị lang Nghĩa chinh hầu Hồ Hữu Tình cúng một chiêng đồng, Tri hộ tiền. bộ Hữu Thị Lang Giảng hoài hầu Nguyễn Cống Huấn cúng 25 quan, Quảng Đông tỉnh, Quảng Châu phủ Tăng Thành huyện Trần Huy Trác cúng 20 quan..." (Bùi Văn Tam - Thông báo khảo cổ học năm 1995 - Nội). Qua nội dung bài minh, ông Đình Dự người làng Nhì Cố Đế, đồng thời cho ta biết chùa Ngọc Tân rất nổi tiếng xứ Sơn Nam lúc đó, các quan đầu tỉnh cả Hoa Kiều cũng cúng tiền đúc chuông chùa.  

Làng Thi Liệu Chùa Thần Quang ngôi chùa cổ gần đền thờ Phạm Bạch Hổ. Hệ thống tượng Phật cổ kính giá trị nghệ thuật cao. Chùa có gác chuông đẹp chuông đồng to đời Tự Đức.

Làng Phong Vinh chùa Tây Phúc Tự ngay cạnh đền chuông đồng cỡ lớn đúc năm Thành Thái Kỷ Hợi (1899). Hệ thống Phật đầy đủ.

Làng Lạc Thiện có chùa Đồng Lĩnh (thường gọi là chùa Đồng). Trước khi lập làng đã có chùa Đồng, sau tôn tạo thêm. Chùa có đôi câu đối.

Đông lĩnh tòng vẫn khai giác lộ

Tây thiên tuệ nhất chiếu toà tâm

Dịch:

Đông Lĩnh theo mây mở đường sáng

Trời Tây rạng rỡ chiếu lòng thiền

Làng Thiện Đăng chùa Quang Minh ngôi chùa cổ mới được trùng tu, có chuông đồng lớn đúc năm Kiến Phúc nguyên niên (1884), hệ thống tượng Phật đầy đủ, cao to, đẹp tượng Cửu long 2 tầng. bát hương đời Mạc, có tượng ông Thiện, ông ác đều đẹp, cưỡi lân chân lại đặt lên 2 con cóc. Đặc biệt có tấm bia đá chạm khắc đẹp vào năm Dương Hoà thứ nhất (1635) nói rõ việc trùng tu Phật tượng của chùa Quang Minh ở thôn Thiện Đăng Thời Mại.

Chùa Diệu Nghiêm nằm trên đất cao làng An. Chùa tuy nhỏ được trùng tu nhiều lần, nhưng có hệ thống tượng Phật đầy đủ. một tượng Phật nằm trên bệ chạm lá lật. Tượng tóc soắn ốc, mặc áo vàng, chân trái co lại, tay trái buông thoải mái, tay phải đặt dài trên chân phải duỗi. Tượng chạm khắc đẹp thanh thoát.

Thôn Đồng Lạc (Thôn Nội) chùa Nội Quang là ngôi chùa nhỏ ven đê, hệ thống tượng phật đầy đủ nhưng nhỏ. Chùa trước trụ trì đã Viên Tịch, hài cốt ở tháp Lạc Dương trước chùa. Chùa còn đôi câu đối cổ:

Luyến cố hữu tình siêu khổ hải

Từ bi lượng cứu quần sinh.

Dịch:

Tình nghĩa thân thương dát díu qua bể khổ

Từ bi hỉ xả rộng mở cứu chúng sinh.

Đạo Lão mang tính chất phù thuỷ, dùng ma thuật để trừ ma , chữa bệnh vẫn còn rải rác một số làng Đại Thắng. Đây tàn của đạo Lão, một số thầy cúng, thầy phù thủy còn lập đền thờ nhà. Một điều đặc biệt làng Thi Liệu vẫn còn điện thờ của Nội Đạo Tràng, mang tính chất đạo giáo của Pháp Trần Toàn lập từ thế kỷ XVII. Nội đạo tràng Thi Liệu theo phái Pháp Nên Bắc Kỳ được một tri huyện họ làng Thi Liệu đưa từ Hải Dương về đây lập điện thờ từ thế kỷ XVIII. Đàn tràng này thờ các tổ sư của Nội Đạo Tràng (Độc Cước tiên sinh, Tam Danh thần tướng và Huyền Đàn tôn ông). Ngoài ra còn thờ cả Trần Hưng Đạo Bà chúa Liễu Hạnh. Đây một hình thức tín ngưỡng dân gian, một số người còn sùng tín, nhưng dễ hiện tượng tín dị đoan, cần sự quan tâm của Mặt trận Tổ quốc và chính quyền.

Tín ngưỡng Mẫu các làng Đại Thắng cũng rất đậm nét, mang nhiều ý nghĩa tốt đẹp phong vinh, tôn kính những người phụ nữ công với nước với dân. Làng Thị Liệu thờ Quốc Mẫu Thái Đường Trưởng công chúa đời Trần công mở mang khai phá vùng Miễn Hoàn. Làng Đống Xuyên thờ cung phi họ Bùi đời đã cho dân ruộng đất để cày cấy. Làng Phong Vinh, ngoài việc thờ Thục An Dương Vương, còn thờ nàng Cả, Nàng Hải và Nàng Ba. Lại có miếu thờ nữ thần thuộc hệ thống Diêu Trì thuỷ thần. Làng Nguyệt Mại đền thờ bà hàng nước chỉ đường cho Thừa tướng Gia. Làng Thiện Đặng thờ Tứ Vị Hồng Nương nữ thần Nam Hải Càn Nương thờ ở đền còn công giúp 2 tướng Đinh Thuyên, Nguyễn Phụng tướng nhà Trần, người làng Thiện Đăng, đánh thắng giặc Toa Đô cửa biển Càn Hải. Phủ thờ Càn Hải Đại Vương còn lưu giữ nhiều đồ thờ tự quý như đôi hạc gỗ cao tới 3m đứng trên rùa đá, kiệu long đình kiệu bát cống, riềm cửa võng loại lớn, cỗ ngai nhà mây hỏa đao uốn lượn quanh rồng, sắc phong từ đời Cảnh Hưng là Nam Hải Quốc Mẫu Vua . Có đôi câu đối làm năm Tự Đức Kỷ Mão (1879) ca ngợi :

Nam quận ngật sùng từ linh tích giao hàm

                                                  Càn Hải nguyệt

 Bắc thiên chung tủ khí tinh tâm viễn thụ

                                                Tống triều phong

Dịch:

Đất Nam sừng sững miếu thờ dấu tích linh thiêng lồng lộng

                                                                   bóng trăng nơi Càn Hải

Trời Bắc mông lung linh khí tấm lòng trinh bạch gió thổi cây

                                                                       đưa tự Tống Triều.

Làng Cố Đế trước miếu thờ riêng ba nữ tướng của Hai Trưng (Ngọc phả còn lưu giữ tại Viện nghiên cứu Hán Nôm - Nội). Nay miếu không còn nữa. Đền thờ làng Phong Vinh có thờ ba Nàng Cả, nàng Hai nàng Ba phải chăng 3 vị nữ tướng này.

Làng Riềng nữ tướng Thị Hoa, sự tích còn lưu truyền ghi bia lại đền thờ của bà làng Nga Thiện huyện Nga Sơn Thanh Hoá. Làng trước đây miếu thờ Hai . Phải chăng đó hai chị em Lê Thị Hoa công mở chợ Riềng để tụ hợp nghĩa quân chống giặc Hán đầu Công nguyên.

Ngoài ra các chùa đều bàn thờ hoặc phủ thờ Mẫu Liễu Hạnh theo kiểu tiền Phật hậu mẫu theo truyền thuyết Mẫu Liễu Hạnh người làng Vân Cát An Thái (nay Tiên Hương, Vân Cát Kim Thái, Vụ Bản). một người con gái tài sắc vẹn toàn, ba lần sinh hoá, thể hiện lòng hiếu nghĩa, tình yêu chung thuỷ và thiện tâm cứu thế tiêu biểu cho nhiều đức tính của người phụ nữ Việt Nam, nên được người đời sùng kính phụng thờ.

Đạo Nho thời phong kiến rất hưng thịnh, nhất là từ đời thế kỷ XV trở về, đã thâm nhập sâu sắc vào đời sống tinh thần của nhân dân, góp phần xây dựng đạo đức nếp sống quy củ làng Đại Thắng Những đạo về nhân nghĩa lễ trí tín, hiếu đễ, tôn trọng đạo, dung công ngôn hạnh... có tác dụng tích cực trong đời sống nhân dân, xây dựng sự đoàn kết trong cộng đồng làng , phù hợp với những phong tục tập quán xa xưa còn được giữ gìn phát triển. Nhưng lễ giáo đạo Nho cũng phần ràng buộc con người vào tam cương ngũ thường trật hẹp, , mất tự do của chế độ phong kiến. Làng nào cũng văn chỉ thờ Khổng Tử, Hội văn tập hợp những nhà Nho, các bậc khoa bảng hàng năm cúng tế, bàn bạc xây dựng phong hoá của xóm làng. Việc học hành khoa cử các làng thời phong kiến khá phát đạt, thể sánh vai cùng đất học Cao Phương, Cựu Hào, Vĩnh Lại, An Thái của đất Thiên Bản xưa như các làng Nguyệt Mại, Cố Bản có nhiều bậc khoa cử thành đạt. Trong số 16 Tiến , Phó bảng đời - Nguyễn, Đại Thắng 1 vị Phó bảng Đỗ Văn Toại người làng Nguyệt Mại. Ông Đỗ Văn Toại sinh năm Nhâm Thân (1872) trong một gia đình học, nhiều người đỗ Cống (cử nhân) đời Trung Hung.

Đỗ Văn Toại đậu cử nhân khoa Canh (1900) cùng với người anh em họ Đỗ Đức Long. Năm sau thi Hội mẹ mất ông phải bỏ kỳ thi Đình. Năm Đinh Mùi (1907) niên hiệu Thành Thái, ông thi Hội đậu Phó Bảng, người có học vị khoa cử cao nhất của làng Nguyệt Mại Đại Thắng thời đó. Theo tộc phả của họ Đỗ làng Nguyệt Mại, thuỷ tổ Đỗ Khánh đậu Hương cống năm 1561, làm quan tri huyện 18 năm. Con trai Đỗ Khánh Trai Đỗ Văn Trung (1561-1645). Năm 1582 ông Trung giám sinh Quốc Tử Giám. Năm 1583 ông đậu Hương cống, thi Hội trúng tam trường. Năm Giáp Thân 1584, vua mở khoa Hoành từ, ông trúng thức (gia phả ghi ông trúng Tiến sĩ ân khoa Giáp Thân). Ông được mời vào cung làm Hàn lâm Thị giảng dạy học cho Đông cung Thái tử. Con của ông là Đỗ Văn Trí cũng đậu Hương cống năm 18 tuổi. Đời thứ năm, ông Đỗ Công Minh đậu cử nhân võ. Tiếp các đời sau, các ông đều học hành thành đạt như Đỗ Văn Cồn, Đỗ Văn Ức, Đỗ Văn Giảng đều làm Huyện thừa (Tri huyện). Ông Đỗ Văn Cần đã tặng làng Nguyệt Mại 5 sào ruộng để làm ruộng học, ai học giỏi được nhận ruộng làm lấy tiền để học lên. Ông cũng người đúc tượng Phật chuông đồng cho chùa làng.

Họ Nguyễn làng Nguyệt Mại có nhiều người đậu tài như Nguyễn Đình Dự, Nguyễn Đình , Nguyễn Văn Phan, 2 vị làm Huyện thừa (Tri huyện).

Làng Đình Hương họ Đỗ họ thành đạt. Họ Đỗ giàu có, cho con cái học hành, nhưng nhiều người phát về đường cử. Ông Đỗ Hữu Nho được phong An liệt tướng quân Mai Trung . Ông Đặng Hữu Tuấn làm đội chỉ huy sứ Vũ Huyên tướng quân Thân tứ vệ quân vụ sự Tham đốc Thời Trung Hầu. Ông Đỗ Hữu Tín được phong Thiêm sự Hoằng Tín đại phu, công tổ chức dân làng đánh giặc cướp, được phong Huân tướng quân Đình Thọ Hầu. Em Đỗ Hữu Nhâm đã từng đi sứ nhà Thanh, làm Tri phủ phủ Thượng Hồng (Hải Dương). Họ cũng tổ tiên vốn người Kiến Trung  (Thanh Hoá) dời ra Đồng Côi rồi sang Đình Hương, Xuân Trí, đậu cử nhân làm chức Đô đời Trung Hưng. Sang đời Nguyễn ông Xuân Thành đậu cử nhân khoa Ất Mão (1855) làm quan tới chức tri phủ Thường Tín. Ông người soạn tộc phả họ năm Tự Đức thứ 9 (1856). Sau này họ Đỗ và họ vẫn tiếp nối được truyền thống hiếu học của tổ tiên, nhiều người học hành thành đạt.

Làng Thiện Đăng nhiều người buôn thuốc Bắc dạy học, nên việc học hành cũng phát đạt. Đời Lê Trung Hưng ông Văn Tạo đậu Hương cống đời Nguyễn có Vũ Văn Thanh đậu Tú tài.

Làng Thượng Linh ông Đoàn Quán Thông đậu Thám Hoa đời (theo sách Nghệ An chí) làm quan tới chức Thượng thư bộ Lễ, Đô đài Ngự sử Đông các Đại học ).

Làng Thi Liệu đời Lê cũng nhiều người thành đạt trên đường khoa cử. Ông Đoàn Ninh Thượng đậu Hương cống. Ông Cao Đức Nhuận đậu Hương cống, giỏi về nghề thuốc được vời vào cung làm tới chức Tướng lang y viện y phó chức Nhuận Nghĩa Nam. Họ Đoàn còn 2 vị tài. Họ một vị đậu Hương cống, làm chức huyện thừa Hải Dương đã đưa Nội Đạo Tràng phái Pháp Nên Bắc Kỳ về làng Thi Liệu. Đời Nguyễn ông Đoàn Đình Tiến đậu cử nhân khoa Giáp Tuất đời Tự Đức năm thứ 27 (1874)

Làng Cố Đế đời - Nguyễn đều có nhiều người thành đạt trên đường khoa hoạn.

Phong Vinh, đời Lê Vĩnh Thịnh năm thứ 14 ông Trung Thực thi Hội trúng tạm trường (Hương cống thi Hội) được phong làm

(1) Trong Đăng khoa lục và văn bia tiến sỹ không có tên Đoàn Quán Thông đậu Thám hoa. Có khả năng ông chỉ đậu Hương cống và có qua khoa thi hoành từ rồi làm quan trọng triều

Huyện thừa Nga Sơn. Ông Vũ Đình Giảng hương cống Quốc Tử Giám giỏi làm Ngũ dũng hiệu chỉ huy Đồng tri Phấn Hầu, sau làm huyện thừa. Các ông Trọng Thời, Trọng Hân đều hương cống, làm tri huyện. Cụ Vũ Trọng đi thi đậu 6 khoá tài rồi mới đậu cử nhân đời Nguyễn (Dân thường gọi cụ Mẫu ). Ông Khắc Hiệu đậu cử nhân năm Giáp Tuất (1874) tại trường thi Nam Định, làm quan tri huyện. Ông Vũ Khắc Tiệp, đậu cử nhân khoa ất Mão (1915 đời Duy Tân lúc mới 23 tuổi, làm Huấn đạo). Số người đậu tài cũng rất nhiều. Ngoài ra còn nhiều tướng. Đời Tướng sĩ lang cục Thị vệ Đình Viên, Thị vệ cục Cai phó Đình Chuân. Đời Nguyễn lãnh binh Trọng Lang lãnh binh Trọng Đức.

Làng Bái cũng có nhiều người đậu đạt. Đời Trung Hưng hai người đậu Hương Cống là Vũ Trần Thiện Trần Lệ. Đời Nguyễn ba người đậu tài là Quán, Mận Vũ Mậu.

Làng Cố Bản đời Nguyễn nhiều người học hành thành đạt cả văn lẫn . Đời quận công Phúc Năng, Thừa chính sứ Lạng Sơn Chận Thọ hầu, Tứ phẩm Lang Trung Công Mỹ, hai vị hương cống Tri phủ Trà Lân Công Phác, Tri phủ Thuận Thành Công Hiệu, các sinh đồ Vũ Đình Đài và Đình . Đời Nguyễn có ông Vũ Đình Hoán thi hương khoa Tân Mão (1831) đời Minh Mạng năm thứ 12 tại trường thi Nam Định, đỗ cử nhân, làm tri phủ An Nhân và ông Duy Ty thi hương khoá Kỷ Dậu (1909) đời Duy Tân năm thứ 2, đậu cử nhân lúc 28 tuổi. Ngoài ra còn có nhiều Nho sinh các trường phủ, trường tỉnh, nhiều vị do được học hành ở nhà dạy học hoặc bán thuốc, chữa bệnh cho dân.

Làng Đống Xuyên họ Vũ vốn là dòng dõi Tiến sỹ Phạm Hùng Vân Bảng, di sang đây đổi sang họ . Đời nào cũng có người học giỏi, thầy học của làng. Thời Pháp thuộc ông Đình Hiển giỏi cả chữ Nho chữ Pháp, khi về hưu trí đã soạn hương ước cho làng, tổ chức canh tân, làm được nhiều việc lợi ích cho làng, chống cường hào áp bức. Con ông Trọng Đạt đậu Cử nhân Văn chương em ông Đạt Đình Quý, giỏi cả chữ Hán tiếng Pháp, làm phiên dịch Toà Khâm được phong Hồng lỗ Tự khanh Trung Thuận phu Hàn Lâm Thị độc học .

Nhìn chung, trong điều kiện đồng chiêm trũng, sống vùng sông nước, nhiều người học hành đậu đạt, thật một vùng đất học. Đã từ lâu, ông cha đã biết tìm cách vươn mình thoát khỏi đói nghèo bằng con đường học vấn. Truyền thống đó đang được phát huy trong chế độ mới.

Đạo Thiên chúa phát triển không nhiều Đại Thắng, chỉ 12 gia đình Lạc Thiện theo đạo Thiên chúa, lập một nhà thờ nhỏ thuộc xứ đạo Đại Lại, làm từ năm 1911. Thôn Đồng Hoà (Thi Liệu) có 8 người theo đạo Thiên chúa nhưng không có nhà thờ.

Tôn giáo phật Lão Nho không sự bài xích mà đồng nhận, nương tựa vào nhau, kết hợp với tín ngưỡng dân gian làm giàu thêm cho cuộc sống tinh thần cộng đồng dân cư các làng , Thiên chúa giáo cũng vậy, do giáo nặng về sự bình đẳng bác ái, thương yêu lẫn nhau, không sự xung khắc giữa lương và giáo, góp phần vào sự đa dạng nền văn hoá, kiến trúc nếp sống làng . Mặt khác, trình độ giác ngộ của nhân dân ngày càng cao chính sách đại đoàn kết dân tộc, tôn giáo của Đảng Nhà nước làm tăng thêm sức mạnh đoàn kết dân tộc, tự do tín ngưỡng không tín ngưỡng, nên các hiện tượng tín dị đoan không còn nhiều tác động.

Nhiều thuần phong mỹ tục các sinh hoạt văn hoá hội lâu đời vẫn được duy trì bền vững trong các làng , tác dụng củng cố đạo làm người và những giá trị luân thường, nếp sống đạo đức phẩm hạnh con người trong gia đình ngoài hội trên sở tình nghĩa trong xóm ngoài làng, sống tương thân tương ái, tôn trọng lẫn nhau, tôn trọng trật tự giữ gìn bình yên trong thôn xóm, hoà hảo trong cuộc sống, hiếu thuận trong gia đình. Những điều này được nhân dân đồng thuận tạo thành những khoán ước, tục lệ được quy định trong các hương ước của từng làng.

Nét chung, các làng sinh hoạt văn hoá tinh thần tại đình làng vừa mang tính chất tín ngưỡng, vừa vui chơi thoải mái tinh thần, hàng năm lễ hội. Vào đám, lễ vật tế thần đơn giản, mang nặng tính chất của vùng quê nông nghiệp (xôi , xôi bánh, xôi chè, hoa quả, xôi lợn). Trâu rất quý, "con trâu là đầu cơ nghiệp" nên lễ vật bằng trâu không nhiều). Làng vào đám, nơi gọi khánh hạ, nơi gọi kỳ phúc, mang ý nghĩa vui mừng thắng lợi của mùa màng năm trước, cầu phúc cho vật thịnh, dân an, mùa màng tươi tốt cho năm mới này. Trò chơi thì rất phong phú, mang tính chất dân gian, như làng Đình Hương thi chọi , làng Thi Liệu thổi cơm thi, làng Riềng thi nuôi lợn béo để tế thần, thi nuôi lớn để làm cỗ ... Vật võ hình thức vui chơi phổ biến. Làng nào cũng tổ chức rước kiệu tế thần tập trung nhất làng Cố Đế, bảy thôn đều rước kiệu về đình làng để tế thần. Làng Thi Liệu múa rồng, một trong ba làng đội múa rồng của huyện Vụ Bản. Những năm hội lớn, làng Thi Liệu Cố Đế thường tổ chức đua thuyền trên sông. Hội khánh lão, khao lão thường tổ chức tại đình làng. Các cụ ông tuổi 60, 70, 80, 90 đều tổ chức khao lão. Các cụ cao niên 80, 90, 100 tuổi đều được dân làng đưa võng điều rước ra lễ tại đình làng, vui chơi ca hát, chúc rượu thọ, chia quà bánh, uống rượu mừng thọ. Tổ chức mừng thọ chu đáo, trang nghiêm vui vẻ, bài bản nhất làng Thị Liệu (văn tế, văn thơ chúc thọ, văn thơ đáp từ dạy bảo con cháu). Đây là một nét văn hoá rất đẹp cần được khôi phục.

Theo các hương ước, tục lệ hạ điền, thượng điền, thường tân (cơm mới) làng nào cũng thường theo tục lệ chung phản ánh sâu sắc tín ngưỡng nông nghiệp mang bản sắc dân tộc cổ truyền vùng đồng bằng sông Hồng.

Việc tổ chức đám tang, đám cưới đều chu đáo, thân tình, thể hiện sâu sắc tình làng nghĩa xóm, vui buồn nhau.

Tang lễ tổ chức dựa trên tình nghĩa trong họ ngoài làng, giúp đỡ nhau, thương nhớ nhau khi người thân đi vào cõi vĩnh hằng, với ý nghĩa sâu xa "nghĩa tử là nghĩa tận".

Theo hương ước, các đám tang diễn ra ít bị ràng buộc vào những thói tục lãng phí, phân biệt đẳng cấp những tập tục phiền phức, tuỳ theo khả năng tang chủ tổ chức, dân làng không bắt buộc theo một lệ chung.

Trong việc tổ chức đám cưới cũng vậy, dân làng cho đó là ngày vui của thôn xóm, của họ hàng con đều đến dự chung vui. Nhà nghèo thì miếng trầu bát nước, gia đình khá giả thì vui chén rượu mừng. Lệ cheo họ, cheo làng không quá nặng nề ý nghĩa xây dựng thôn xóm, dòng tộc lễ rước dâu vừa trịnh trọng, vừa vui vẻ, rộn ràng tiếng cười nói chúc tụng. Tuy nhiên, dưới chế độ phong kiến nạn đa thê, nạn tảo hôn, bức hôn vẫn còn nặng nề.

Các Hương ước cũng chú trọng nhiều đến việc bảo vệ sản xuất trong làng, xử nghiêm những trường hợp trâu , vịt giống phá hoại sản xuất, xử phạt nghiêm những tuần định coi đồng, coi đê bị đê hỏng không phát hiện, đồng nước bị tháo cạn hoặc bị làng khác tháo nước ngập làng mình, đồng thời xử phạt đích đáng người dân nào tháo trộm nước của nhau, hoặc xử phạt những ai không tham gia đắp đường, đào đắp mương máng kênh ngòi theo quy định. Hương ước cũng chú trọng đến việc giữ gìn an ninh trật tự thôn xóm, xử phạt nghiêm những kẻ trộm cắp đánh chửi nhau, lễ với người trên, con cái không hiếu thuận với ông , cha mẹ, đồng thời khen thưởng xứng đáng những người bắt được trộm cướp trong làng, bị thương thì làng chăm sóc chu đáo. Hương ước nhiều làng rất quan tâm đến việc khuyến học khuyến tài, quy định tổ chức đón rước, khao mừng các vị tân khoa về làng theo thứ bậc ràng(2).

Các làng Đại Thắng bề dầy lịch sử nên bảo tồn nhiều nét đẹp văn hóa, nhiều thuần phong mĩ tục, nhiều tín ngưỡng cổ truyền mang bản sắc dân tộc, đề cao ý thức tôn trọng biết ơn tổ tiên và các bậc tiền bối công với nước với dân. Các tôn giáo Phật, Lão, Nho sẵn sàng đồng thuận, hòa hợp, đoàn kết, tạo nên cảnh hòa mục, tương thân, tương ái, hướng thiện trong cộng đồng làng . Việc học hành khoa cử trong ùng đồng chiêm trũng vẫn nhiều tiến bộ. Nhiều gia đình, dòng tộc đã hướng cho con cháu chuyên cần học tập để vượt nghèo, vượt khó, vươn lên số phận. Những truyền thống văn hòa đó, ngày nay dưới chế độ hội chủ nghĩa, đang được phát huy việc học. 

Cơ quan chủ quản:
Địa chỉ : 
Email: