XÃ ĐẠI THẮNG CÓ TRUYỀN THỐNG VĂN HOÁ LÂU ĐỜI ĐẬM ĐÀ BẢN SẮC DÂN TỘC

Làng
xã Đại Thắng xuất hiện sớm trong cộng đồng cư dân đồng bằng Bắc bộ, nên còn lưu giữ đậm nét dấu ấn văn hóa dân tộc lâu đời. Nhiều tín ngưỡng và hoạt động văn hóa cổ xưa còn tồn tại.
Hệ
thống đền chùa miếu phủ có bị chiến tranh tàn phá, thời gian phôi phai, nhưng nhìn chung vẫn còn nhiều và cổ kính. Các thôn xóm có miếu thờ thần bản thổ,, hậu thổ,
long thần là các vị thần đất bảo vệ sự bình yên trong thôn xóm. Làng Riềng xưa có cầu "thượng gia hạ trì" cầu gỗ lim nhiều nhịp bắc qua sông uốn quanh làng, trên có mái ngói, hai bên thành cầu có ghế ngồi cho khách bộ hành và dân làng nghỉ ngơi. Sát mái ngói, có bàn thờ thần Thủy Tề là thần sông nước. Làng Phong Vinh có ngôi phủ thờ thần Đá nằm trước một đầm nước rộng. Phía Bắc làng có gò cát cao ven đầm nước, trên gò có một hòn đá xanh có gốc ăn sâu trong lòng đất. Dân làng thấy đó là sự lạ giữa đồng bằng, nên lập đền thờ, tôn vị thần Đá là Đào Hoa công chúa trấn giữ, phía bắc làng, sắc phong "Thiên tiên trấn Bắc đĩnh dị Đào Hoa tiên chúa". Miếu còn đôi câu đối ca ngợi.
Lẫm
lẫm
thương
đôi
truyền
dị
sử
Nguy
nguy
tử
các
hỉ
trùng
doanh.
Dịch là:
Lẫm
liệt
gò xanh truyền sử lạ
Nguy
nga
gác
tía
đẹp
nhiều
tầng
Và câu đối: :
Trường lưu phiến thạch khai đường bệ
Biêt
chiếm
hồ
thiên
ẩn
vũ
vân
Dịch là:
Đá
xanh
vững
chãi
xây
nền
móng
Miếu
nhỏ
ẩn mình dưới mây mưa
Cây
đa, giếng nước đình làng là biểu tượng đẹp đẽ, thân quen của các làng. Làng nào cũng có đình thờ Thành hoàng, vị thần hộ mệnh của làng. Ngoài ra còn nhiều đền thờ các vị phúc thần, những vị thần có công với nước với dân.
Bảy
thôn của làng Cố Đế xưa có hệ thống đền thờ Đông Hải, Tây Hải, Bắc Nhạc, Cao Sơn Đại Vương và thần Quá Giang là những vị thần khai sáng vùng biển những vị thần bảo hộ cho dân đi biển và trị thuỷ. Ngoài ra còn thờ thần Nam Hải Đại Vương, vừa là thần giúp dân đánh cá, bảo vệ dân chài đi biển, vừa là vua Thục An Dương Vương, vị vua trị vì nước Âu Lạc xưa đã kháng chiến chống giặc Tần, chống quân Triệu Đà xâm lược.
Ngọc
phả đền thờ của làng Cố Đế nêu rõ sự tích Đông Hải và Tây Hải Đại Vương là hai con của Lạc Long Quân và Âu Cơ, trong đoàn 50 người con theo Lạc Long Quân xuống khai phá vùng ven biển. Bắc Nhạc Đại Vương (tức Chàng Ba) là 1 trong 50 người con theo mẹ lên núi, được vua Hùng cử về cai quản vùng này. Ba anh em đã gặp nhau tại bãi cát Cố Đế, cùng nhau bàn tính giúp dân khai phá đất đai, mở mang việc trồng trọt và đánh cá. Khi có giặc Mũi Đỏ quấy rối biên cương ba hoàng tử đã đem quân giúp vua Hùng đánh thắng giặc. Các thôn Đồng Nhất, Đồng Nhì, Đồng Lạc, Phong Vinh đều có đền
(1) Ngọc phả đền
Đồng Lạc xã Cổ Đế. Cụ Kha và cụ Thử cung cấp
thờ cả 4 vị (kể cả Nam Hải Đại Vương) đền Đồng Lạc (Lạc Nội) có đôi câu đối đầy ý nghĩa.
Sơn Hải thần minh khai Việt địa
Tiên Long linh dị hiển Nam thiên
Dịch;
Non
biển
thần
thiêng
khai
cơ đất Việt
Tiên
Rồng
tổ nghiệp rộng mở trời Nam
Hay câu:
Địa tịch trùng thiềm tân vũ đống
Thiên khai Bách Việt cựu sơn hà
Dịch;
Đất
dựng
liền
thềm
đến
miếu
mới
Trời
sinh
Bách
Việt
nước
non
xưa.
Bức
hoành phi "Nam giao duật triệu" (Sáng nghiệm cái cơ đất phương Nam) và hai câu đối trên nói lên sự nghiệp khai sáng của vua Hùng, tộc Bách Việt đã xây dựng nước nhà đầu tiên.
Ngoài
đền Đồng Lạc (Lác Nội), đền Đồng Nhất và Đồng Nhì có đền thờ cả 4 vị Đông Hải, Tây Hải, Bắc Nhạc và Nam Hải Đại Vương.
Đền
Đồng Nhất trước là một ngôi đền lớn bị chiến tranh tàn phá, chỉ còn cung tiền đường và hậu cung mới được sửa sang lại. Tiền đường 3 gian hai chái rộng, có 4 hàng cột lớn, cột kèo đều sơn son thiếp vàng. Đền này có bức hoành phi "Triệu Đông Từ" có nghĩa đền này là đền Triều Đông. Nhưng quý nhất và ý nghĩa nhất nói lên đền này thờ những vị thần thời Hùng Vương là bức hoành phi để ở tiền đường và những thần vị. Khám thờ có thần vị riêng của 4 vị thần. Bức hoành phi ghi 4 chữ "Tiên Long Sơn Thuỷ" (Non nước Tiên Rồng). Thần vị ghi tên tất cả các vị thần: "Đại vương thứ nhất Đông Hải, Đại Vương thứ nhì Tây Hải, Đại vương thứ ba Bắc Nhạc cùng với 4 vị Đại vương Minh Quốc". ( Đền còn đồ tế lễ và kiệu bát cống và 4 đạo sắc. Đạo sắc xưa nhất (Tự Đức thứ 10 - 1857) phong cho Bắc Nhạc Đại vương, gia tặng Hùng Trấn chi thần. Sắc đời Tự Đức năm thứ 33 (1880) và Đồng Khánh nhị niên (1887) chỉ phong 3 thần đời Hùng Vương và có sắc phong cả Nam Hải Đại vương.
Đền Đồng Nhì
ở sát sông,
ngoài đê Đại Hà
đang được kè lại.
Đền còn bậc lên
xuống ở mé sông.
Đền có sân rộng
và cột đồng trụ
lớn. Đền có bức
hoành phi "Ngọc
Quang Từ"
(Đền Ngọc Quang,
nên dân còn gọi
là đền Ngọc hay
đền Bến).
Ở đây còn nhiều
đồ thờ tụ quý
giá về nghệ thuật
như cỗ ngai, long
đình, kiệu bát
cống có nghệ thuật
điêu khắc hoa lá
cách điệu thành tứ linh.
Ở đền còn lưu
giữ đạo sắc đời
Tự Đức năm thứ
3 của Tây Hải
Đại vương (1850).
Đời Khải Định mới
sắc phong 3 vị
thần đời Hùng Vương
và 4 vị thần
nước Minh (Trung
Quốc), được
coi là người nhân
đức làm nhiều điều
tốt lành (Minh quốc
chí nhân ý hành
từ phúc tứ vị
tôn thần) nhưng
sự tích vẫn chưa
rõ. Đền còn
6 bia hậu thần
của họ Vũ đều
là những văn thân
quan lại triều Lê
Nguyễn.
Thôn Phong Vinh
có đền thờ Nam
Hải Đại Vương làm
Thành hoàng (có
sắc phong đời Cảnh
Hưng thứ 44 -
1783). Các
đời vua Minh Mạng,
Thiệu Trị, Tự
Đức đều có sắc
phong cho một vị thần
là Nam Hải Đại
Vương, nhưng từ
năm Tự Đức thứ
33 (1880) trở
đi thì ngoài thần
Nam Hải, còn
sắc phong 3 vị thần
đời Hùng Vương Đông
Hải, Tây Hải,
Bắc Nhạc Đại vương.
Trong dân gian,
truyền thuyết về
Nam Hải Đại vương
là một vị thuỷ
thần, thần biển,
thần Cá Ông (Cá
voi) luôn giúp
đỡ dân đi biển
(1)
Theo các
cụ trong
làng thì trước
ở mé sông
có 1 miếu thờ 4 vị thần người nước Minh (Trung Quốc) nhưng không rõ sự tích. Sau miếu bị lở xuống sông, dân rước thần vị về thờ chung tại đền thôn Nhất Cố Bản. Đời Duy Tân năm thứ 3 mới có sắc phong chung cả 4 vị thần này.
và dân ven biển đánh cá bình
an, mùa màng
mưa gió thuận hoà tươi
tốt. Điều đó phù
hợp với nội dung
sắc phong. Nhưng văn tế
và câu đối đều
nói về sự tích
Thục An Dương Vương và
các tướng đời Hùng Vương.
Đây là một ngôi
đền còn nguyên vẹn
vào loại lớn,
cảnh quan hoành tráng, đồ thờ
tự trang nghiêm.
Cung đệ nhất có
khám thờ thần vị
Đương cảnh thành hoàng
Nam Hải Đại Vương,
đặt trên bệ thờ sập chân
quỳ có chạm mây hỏa
đao. Xà nóc
cung đệ nhị còn
dấu vết chạm khắc nghệ
thuật Lê. Có
hai đôi câu đối đẹp
và đầy ý nghĩa nói
về nước Văn Lang
Âu Lạc.
Hạo khí bái thương tân,
điền địa kỷ
nhi tĩnh thiên cương,
bao
ảo
quát khu dung
thị trạch.
Chính thống
tồn
thanh sử,
đại Văn lang
nhi thác Âu
Lạc, khâm
sơn để
thuỷ hữu di
thành.
Tạm dịch:
Khí lành
bến sông sâu, đất
vững bền lâu
yên tĩnh,
thoáng bầu trời,
rộng hình thế,
chính là nơi
ở
Sử xanh truyền
chính thống,
thay Văn Lang,
lập Âu Lạc,
non Bù Đài,
nước dòng Đế,
còn dấu thành
xưa.
(Câu đối
của Đốc Học Hải
Phòng, Tiến sĩ
làng Cựu Hào (xã Vĩnh
Hào Vụ Bản )
Nguyễn Văn Tính soạn).
Hay câu:
Quy
nộ triển hùng uy kiếm
mã
sáng
thành Âu Lạc quốc
Loa thành phỏng thần
tích vân long trường
hộ Việt Thường
đô
Tạm dịch
Nỏ
móng rùa tỏ
hùng uy kiếm
ngựa xông pha
giữ gìn quốc gia
Âu Lạc Thành
Cổ Loa theo
thần bảo, rồng mây uốn
lượn
bảo
vệ độ ấp
Việt Thường.
(Câu đối của
Huấn đạo Hàn lâm kiểm thảo cử nhân
Vũ Khắc Tiệp).


Thôn Bái Thượng có ngôi
đền đá là một
loại hình kiến trúc thờ
cúng độc đáo của đất Nam
Định. Cả huyện
Vụ Bản có hai
ngôi đền đá,
là Khải Thánh đài
ở làng Vân Cát
ở xã Kim Thái
và ngôi đền đá
làng Bái xã Đại
Thắng. Đền Bái
có ba cung trùng
thềm. Hậu cung
gian dọc. Gian
trong có khám thờ đặt
thần vị của Đệ
nhất Minh Lang và
Đệ nhị Minh Lang. Gian
ngoài ngăn cách với
gian trong bằng bộ
cửa sơn son thiếp vàng.
Gian này đặt một
cỗ long đình trên
có ngại thờ và
thần vị. Xà nóc chạm
bong rồng chầu mặt
nguyệt và tứ
linh sơn son thiếp vàng cổ kính: Cung
giữa là ba gian
ngang, gian giữa
rộng trùng thiềm với
hậu cung, đặt
hương án vuông rộng,
riềm là lá cách
điệu hoá rồng. Đồ
thờ tự cỡ lớn, 2
ống hương to cao
tới 0,8m. Bộ
thất sự bằng đồng
cổ kính. Phía
trước đặt hai bên
là bộ bát biểu
hoa lá cách điệu
thành tứ linh. Cung
này có 2 đôi
câu đối nói lên
thế đất rồng bay voi
phục của ngôi đền
và mối quan hệ giữ
hai thôn (Bái
Dương và Bái Thượng).
Cung đệ tam trùng thềm với cung
đệ nhị có móng
đá 3 gian giữa
hai chái xây tường.
Cung này có bốn
hàng cột đá, đỡ các
hoành dọc và xà
ngang bằng đá, chạm khắc
triện dắt hai đầu.
Các cột đá tròn chạm quanh
cột hình rồng sơn
đen nổi trên nền
đá trắng. Đầu rồng đối xứng
chầu vào gian giữa.
Mặt tiền của hiện
bái đường là ba
gian cửa dàn bằng
đá chạm. Phía trên
mái hiên chạm hai rồng
chầu mặt nguyệt.
Ba dàn cửa có
ba rèm cửa võng
bằng đá chạm hoa
văn triện dắt,
lá rủ xuống bốn
cột vuông. Các
cột vuông đều khắc câu
đối. Các câu
đầu, xà nách,
bệ cửa đều bằng
đá khắc chạm triện
dắt. Trước đền
là sân rộng có tường
bao và cột đồng
trụ. Tiền đường
gian giữa đặt hương
án lớn, hai
bên có bộ bát
biểu. Trước hương án
có đội hạc gỗ
đặt trên rùa cỡ lớn chầu đối
xứng. Tiền đường bằng
đá này
(1) Về 2 vị thần thờ ở đây có thể là Chàng
Cả và Chàng Hai (Đông Hải, Tây Hải), cũng có thể là 2 trong 4 vị thần nhà Minh.
Ngọc phả không còn nên chưa xác minh được.
được xây dựng năm
1936 (Bảo Đại
thập nhất niên).
Thợ Ninh Giang (huyện
Hoa Lư Ninh Bình)
nhận mẫu, chọn
đá chạm rồi đưa ra
xây lắp.
Cả 7 thôn
của xã Cố Đế
xưa đều có đền
riêng thờ chung các
vị thần của cả
xã (ngay cả
làng Bái dù hai
vị thần đó là
Chàng Cả và Chàng
Hai của vua Hùng
hay là hai vị
thần người nước Minh
"Trung Quốc ").
Do đó, khi
làng Đế vào đám,
cả 7 thôn đều
có kiệu rước thần
về đình làng xã
(chỗ hợp tác
xã mua bán cũ)
làm lễ chung các
vị thần đời Hùng
và khi miếu thờ
4 vị thần nhà
Minh bị sụt xuống
sông (đời Duy
Tân, đầu thế
kỉ XX) thì
mới đưa về thờ
chung. Điều đó
nói lên tính cộng
đồng làng xã của
Cố Đế, cư dân các
thôn dù đến trước
hay đến sau đều
có chung một nguồn
cội, có một
tính đoàn kết,
gắn bó với nhau
để xây dựng cuộc
sống chung. Ngoài các
đền trên, các
làng Cố Đế còn
thờ chung vị nữ
thần Đào Hoa công
chúa. (Làng
Bái cũng thờ Đào
Hoa công chúa như làng
Phong Vinh) ngoài
ra Phong Vinh trước
có thờ riêng ba
vị nữ thần (Nàng
Cả Dung Nghi,
Nàng Hai Phương Phi,
nàng Ba Trinh Chất).
Làng Đế xưa còn
có miếu thờ ba
nữ thần là ba
nữ tướng của Hai
Bà Trưng, vẫn
còn ngọc phả tại
thư viện Hán Nôm,
nhưng miếu thờ bị
sạt lở xuống sông.
Xã Thị Liệu
cũ có đền thờ
lớn là đền Bạch
Mã thờ tướng quân
Phạm Bạch Hổ (còn
gọi là Phạm Phòng
át). Phạm
Bạch Hổ người Đông Châu
(nay thuộc Hưng
Yên). Trong loạn
12 Sứ quân,
Phạm Bạch Hổ là
một Sứ quân nổi
lên chiếm giữ Đông
Châu. Sau thấy Đinh
Bộ Lĩnh là người
có nghĩa khí,
được Minh quân Trần
Lãm ủng hộ,
thanh thế ngày càng
lớn, nên Phạm
Bạch Hổ về theo
Đinh Bộ Lĩnh,
được phong là Thân
vệ tướng quân,
lập nhiều công trong
sự nghiệp thống nhất
đất nước. Khi
Lê Hoàn lên ngôi
chỉ huy quân dân
cả nước chống Tống,
ông được phong làm
Đô liệu lương thảo
sứ (Đô liệu
lương mục) có
công trong việc cung
cấp hậu cần cho
Lê Hoàn chống Tống thắng lợi. Ông lấy miền Thiên Bản, Ý Yên, Nam Trực làm bản doanh lo hậu cần, lập kho lương, do đó sau khi ông mất, làng nào có kho lương đều lập đền thờ (Vụ Bản có 5 đền, Nam Trực có 2 đền, Ý Yên có 1 đền).
Đền
có nhiều dấu tích nghệ thuật điêu khắc đời Lê thế kỉ XVII, XVIII.( Tiền đình được tôn tạo vào năm Gia Long Kỷ Mão (1819) có nhiều mảng chạm bong và chạm lộng nghệ thuật Lê và Nguyễn đẹp. Đền Bạch Mã làng Thị Liệu có câu đối ca ngợi công đức của ông:
Thiên giáng thánh nhân bình Bắc địch
Địa lưu tiên tích trấn Nam thiên.
Tạm dịch:
Trời
sinh
bậc
thánh
bình
giặc
Bắc
Đất
giữ
tích
xưa
trấn
trời
Nam.
Lại
có câu đối nói lên công tích của ngài âm phù cho vua Lý đánh thắng giặc Chiêm Thành.
Ngư đầu hộ độ Chiêm vô địa
Điểu tích truyền linh Việt hữu thiên(2)
Dich:
Thuyền
đi cá giúp, Chiêm không đất
Buồm
đậu
chim
đưa, Việt có trời.
(1) Hiện có 2
tượng phổng quỳ được Bảo tàng tỉnh trưng bày
(2) Tương truyền
khi vua Lý đi đánh giặc Chiêm Thành quấy rối biên cương phía Nam, thuyền gặp
bão bị thủng, nước tràn vào, ngài đã hoá thành cá nhảy vào thuyền bịt chỗ
thủng, cứu được nhà vua. Khi chiến thắng trở về, đoàn thuyền của vua Lý lại gặp
sương mù, mất phương hướng. Ngài lại hóa thành chim biển vừa bay vừa đậu trên
cột buồm, chỉ hướng cho thuyền thoát khỏi sương mù, về đến kinh đô an toàn. Cẩu
đối trên nói về hai sự tích này
Làng
Thi Liệu có hai đền thờ phúc thần là Trưởng công chúa Thái Đường, một ở ngay Thi Liệu, một ở thôn Miễn Hoàn. Thái Đường là Trưởng công chúa của vua Trần Thái Tông. Chồng và con trai của bà đều hi sinh trong cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông. Khi vua Trần có chính sách cho các vương hầu công chúa, cung phi đem gia nô tập hợp dân xiêu tán khai hoang vùng ven sông, ven biển, thì bà Thái Đường cùng gia nô chiêu mộ hơn 50 người đã khai phá vùng đất ven sông Bắc Hà của xã Đô Liệu, lập ra một đại điền trang hơn trăm mẫu đất tốt, có bãi sông phơi lưới cá, có chợ để mua bán ven sông, có trại Thủ (đầu đại điền trang), trại Vĩ (cuối đại điền trang) để canh gác bảo vệ. Không may công chúa Thái Đường mắc lỗi, triều đình tịch thu toàn bộ điền trang, biến thành ruộng quốc khố. Công chúa Thái Đường đi tu ở chùa Nghĩa Xá, (gần Lạc Quần, nay thuộc Xuân Trường). Ít năm sau vua thương tình tha lỗi, trả lại điền trang cho công chúa. Công chúa cho dân số ruộng đất đó để làm ruộng đất cộng của làng chia nhau sản xuất. Dân nhớ ơn bà, đặt tên là Trại Miễn Hoàn (miễn kỳ tội, hoàn kỳ điền) để kỉ niệm sự kiện này. Khi bà mất dân lập đền thờ (. Bà Thái Đường được dân quý mến gọi là bà Quốc Mẫu. Nhà vua đã phong sắc cho bà là "Quý Mỹ Tiết Hạnh Dung Quang Quốc Vương".
Đền
bà Quốc Mẫu thôn Miễn Hoàn ở ngay bờ sông. Trong đền có tượng của bà và bốn tượng nàng hầu cổ kính. Đền có đôi câu đối làm năm Kiến Phúc Giáp Thân (1884) ca ngợi công lao khai khẩn lập ấp của bà.
(1) Sự tích ở bia
đá đặt tại đền bà Quốc Mẫu. Đây là một tấm bia ghi toàn bộ ngọc phả về sự tích
bà Quốc Mẫu.
Hệ xuất thánh thần chiêu tập dân khẩn khai lưu hiển tích.
Phúc di Độ ấp) diễn phiên thịnh đại tác hoan thanh.
Dich:
Thần
thánh
ra đời, chiêu dân khẩn hoang, truyền lưu tích sáng.
Phúc
lộc
làng
Đô, dân đông của lắm, vang tiếng hát ca.
Trong
làng Thi Liệu cũng có đền thờ bà Quốc Mẫu và con trai là Khang Quốc Công. Ngoài ra còn có đền thờ ông Hậu Hoằng, tương truyền là một gia nô của bà Quốc Mẫu giúp bà điều khiển việc khai dân lập ấp. Khi mất, ông được dân tôn thờ làm phúc thần.
Đình
làng Thi Liệu đặt ở giữa làng trên một bãi đất rộng nhìn ra đê. Khi làng vào đám các vị thần đều được rước ra đình, cả làng mở hội đồng vui rồi lại rước kiệu về đền.
Làng
Thiện Đăng có quần thể đền chùa phủ nguy nga, trước có hồ rộng, cây to bóng mát, cảnh quan tín ngưỡng sầm uất. Đền làng cổ kính, là nơi thờ Triệu Việt Vương Quang Phục làm thành hoàng làng. Theo ngọc phả, Triệu Quang Phục giúp Lý Bí đánh giặc Lương lập nước Vạn Xuân, đưa Lý Bí lên ngôi gọi là Lý Nam Đế. Khi Lý Nam Đế mất, Triệu Quang Phục xưng vương tiếp tục lãnh đạo cuộc kháng chiến bảo vệ đất nước. Khi Triệu Quang Phục tổ chức nhân dân chống giặc Lương ở đầm Dạ Trạch (Hưng Yên), có lập đồn sở ở đất Thiện Đăng. Sau Lý Phật tử làm phản, Triệu Việt Vương đã chạy về vùng này chống lại, Thế cùng, Triệu Việt Vương rút về Độc Bộ (Ý Yên) và nhảy xuống cửa biển Đại An tuẫn tiết. Dân chài Thiện Đăng ghi nhớ công lao lập đền thờ Đền được tôn tạo nhiều lần. Đền còn nhiều dấu tích kiến trúc điêu khắc đời Lê Trung Hưng. Đền có đôi ngựa gỗ bọc mây đan sơn mầu trắng thành ngựa bạch và một con mầu hồng. Hai
(1) Làng Đô Liệu
đến đời Nguyễn Tự Đức mới đổi thành Thi Liệu.
cỗ kiệu đời Lê thế kỷ XVIII rất cổ kính được giữ gìn còn như mới. Các hoành phi, câu đối, cửa võng, hương án của đền còn nguyên vẹn, tạo cho không gian thờ cúng thật trang nghiêm. Quý nhất là tượng đồng vua Triệu Việt Vương đặt trong khám thờ có kính. Tượng đúc liền bệ, đội mũ bình thiên, hai tay để trên đầu gối, mình mặc long bào đúc nổi hoa văn, tượng cao tới 1,6m, nặng 500kg. Câu đối trong đền còn giữ nguyên vẹn có gần một chục đôi, ca ngợi công tích của Triệu Việt Vương, tiêu biểu là hai đội:
Long thuy thiên phù Lương tẩu Bắc
Diên thành địa cát Lý tồn Nam
Dịch:
Rồng
thiêng
giúp
đời
đuổi
giặc
Lương
cút
về cõi Bắc
Diên
Thành
cắt đất nhường họ Lý còn giữ phương Nam
Hay câu:
Nhị thập tam niên thiên hạ đế
Ức thiên vạn tải Việt Nam thần
Dịch:
Hăm
ba năm trị vì đất nước
Ngàn
vạn
đời
làm
thần
Việt
Nam
Đền
còn giữ nhiều bia đá, trong đó có bia đời Cảnh Hưng năm thứ 16 (1755) nói về các hậu thần của đền, là một tấm bia chạm khắc đẹp.
Đền
có 3 cung. Hậu cung đặt tượng trong khám
thờ. Phía trước đặt ngại lớn trên hương án đẹp, có 2 đài quá cỡ lớn cao tới 70cm, đường kính 30cm, có đôi song bình cỡ lớn lam làm vẽ mai hoa khổng tước. Trùng thềm với cung giữa là một bức cửa võng chạm lộng tứ linh. Cung có đặt hòm sắc. Theo các cụ thì trước đền có nhiều sắc nhà Lê, nhưng nay bị thất lạc, chỉ còn lại 4 sắc phong triều Nguyễn, sớm nhất là sắc Thành Thái năm thứ nhất (1889) - Có đôi câu đối làm năm Thành Thái Đinh Dậu (1897).
Lương tướng dĩ tuỳ long trảo Bắc
Lý
binh không vọng mã đề Nam
Dich: :
Tướng
Lương
mắc
phải
nỏ rồng chạy dài về phương Bắc
Quân
Lý ruổi rong vó ngựa vang vọng khắp trời Nam
Hay câu:
Lực dũng tán Bắc Lương long trảo thần uy truyền quốc sử
Giới phân toàn Nam Lý Diên thành tuyên thệ tráng đô thành
Dich:
Sức
mạnh
nỏ móng rồng đuổi giặc Lương về phương Bắc rạng rỡ oai phong thần trong quốc sử
Phân
giới
ở Diên Thành cùng Hậu Lý Nam Đế lời thề vang
vọng khắp hoàng đô
Cung
giữa có hương án lớn trên đặt hai cỗ ngai. Câu đầu chạm trổ đẹp kiểu Nguyễn hoa cúc và triện dắt.
Cung
ngoài là tiền đường năm gian hai chái có 6 vì kèo cột trùng tu đời Thành Thái năm 1900. Gian giữa có bức hoành phi, phía trên chạm lưỡng long triều nguyệt, phía trước chạm phượng ngậm thư, nghê và rùa, giữa có 4 chữ: "Long trung chính đức". Dưới bức hoành phi là cửa võng chạm khắc cành nho dắt chữ triện. Toàn bộ cột kèo xà hoành đều sơn son vẽ rồng vàng. Hai bên đặt hai cỗ kiệu bát cống và kiệu bành đời Lê.
Đây
là một ngôi đền đẹp còn nhiều đồ thờ tự quý và di tích kiến trúc, điêu khắc đời Lê Trung Hưng.
Bên
cạnh đền Triệu Việt Vương là phủ thờ Tứ vị Hồng nương. Theo ngọc phả viết năm Hồng Phúc nguyên niên (1572) còn lưu giữ tại phủ, thì đời Trần có hai đội trưởng thuỷ quân là Đinh Thuyên và Nguyễn Phụng được nữ thần đền Càn Hải (làng Phương Cần xã Quỳnh Phương, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An) là Nam Hải tứ vị Hồng Nương phù trợ đánh thắng giặc Toa Đô, nên rước Tứ vị Hồng Nương về thờ lập phủ Thánh Bà ở phía Tây Bắc làng (nay là trạm xá xã Đại Thắng), sau bị chiến tranh tàn phá, phủ được chuyển vào giữa làng hiện nay. Phủ mới trùng tu lại, nhưng còn nhiều di vật văn hoá nghệ thuật Lê Trung Hưng và Nguyễn Phủ được xây dựng lại 3 gian hai chái, phía sau có hậu chẩm. Hậu chẩm có bức cửa võng cỡ lớn cách điệu tứ linh, phía trên có lưỡng long triều nguyệt. Gian giữa có hương án lớn, đặt cỗ ngai ỷ nghệ thuật Lê, có thần vị của Nam Hải Càn nương. Hai bên đặt 4 kiệu long đình phía trước hương án có đôi hạc thờ kiểu Nguyễn đặt trên mình rùa, đôi hạc cao tới 3m, điêu khắc và sơn đẹp .
Ngoài
ra phủ thờ còn 1 kiệu võng đòn khiêng đầu chim phượng, có 2 đòn ngang 4 người khiêng, có 1 kiệu bát cống và 1 kiệu long đình kiểu Lê Trung Hưng thế kỷ XVII.
Phủ
còn đôi câu đối nói lên sự tích của Nam Hải Càn Nương
Nam quận ngật sùng từ, linh tích dao hàm
Càn Hải nguyệt
Bắc thiên chung tủ khí, trinh tâm viễn thụ
Tống triều phong
Dich:
Đất Nam
sừng sững đền
thờ, dấu
thiêng bao
trùm bóng trăng
Càn Hải
Trời Bắc
lung linh tiết khí,
lòng trinh chuyển
động mây gió
Tống triều).
Làng Tư An
(làng Ín)
xưa có đền thờ
3 vị thần là
Cương Kiệt, Tiến
Quốc và Cương Nghị.
Đền có bức hoành
phi "Tam linh
quyến hữu" (Ba
thần thiêng mang phúc
lành cho dân).
Đền có tiền đường và
hậu cung. Hậu cung
có hai gian dọc
có mái hiên bổ
trụ. Thêm đá
chạm rồng. Xà
nóc chạm triện dắt,
phù vân. Hai
xà nách chạm hoa lá
cách điệu chim phượng
- kèo vẩy là
hai rồng - Hậu
cung đặt một hương
án chân quỳ dạ
cá nghệ thuật Lê,
trên đặt hai ngai
của nhị vị công
chúa nhà Mạc.
Tiền đường có hương
án thờ ba vị,
hai bên có đôi
hạc gỗ đẹp,
cao 2,5m. Đồ
thờ tự còn khá
đầy đủ. Tương
truyền đền thờ
hai công chúa và
ba vị tướng nhà
Mạc, đánh trận
bị thua về ẩn
tại đây, xây
dựng thành trại Ín.
Nhà Lê Trung Hưng,
cho quân vây bức,
ba vị tướng đường
cùng nhảy xuống giếng
tự vẫn. Dân
lập đền thờ,
gọi là vua Ín.
Làng có câu ca:
Nhà ai có
thóc thì phơi
Đến giỗ
vua Ấn thì
trời lại mưa.
Đền còn lưu
giữ chín đạo sắc
đời Nguyễn, sớm
nhất là năm thứ
(1) Ngọc phả ghi sự tích
cung phi nhà Tống họ Triệu tên là Hồng Đại, sinh với Tống Vũ Đế hai con gái là
công chúa Hồng Mai và Hồng Hạnh, nuôi một nữ tì là Hồng Thị. Giặc Nguyên chiếm
Trung Quốc diệt nhà Tống. Vũ Đế đường cùng trầm mình chết. Hồng Đại và ba con
nhảy theo nhưng không chết, bám vào được một cây to, dạt vào một ngôi chùa ở
Càn Hải (Nghệ An). Hồng Đại tự nhiên có mang, hổ thẹn trẫm mình chết, ba con
cũng nhảy xuống biển chết theo, linh thiêng, được phong là Tứ Vị Hồng Nương,
lập đền thờ ở cửa Còn (Càn Hải, Quỳnh Lưu, Nghệ An).
mười đời Tự Đức
(1857),
phong thần cho ba
vị: Cương Kiện
Khuông Quốc Trung
Đẳng Thần.
- Cương Nghị
Tôn Thần
- Tiến Quốc
Tôn Thần.
Đền có một
bài thơ ca ngợi
cảnh thanh bình của
dân làng Ấn:
Nhất phương
tự mệnh thừa
thiên lung
Toàn ấp
an sinh tụng
thánh công
Hiệu đẳng
tam hoàng cư
thượng thế
Công cao
ngũ đế trạch
tư dân.
Dịch:
Một vùng
trời đẹp đất
tư an
Dân ấp
ghi công đức
thánh thần
Sống cảnh
yên bình nơi
trần thế
Khác chi
đời Ngũ Đế
Tam Hoàng.(1)
Làng Nguyệt Mại
và làng Lạc Thiện
đều có đền thờ
Thừa tướng Nam Việt
là Lữ Gia,
một người kiên quyết
chống giặc Hán xâm
lược cuối thế kỷ II
trước Công Nguyên.
Lữ Gia lãnh đạo
cuộc kháng chiến.
Lúc đầu quân Hán
mạnh, Lữ Gia
phải rút về vùng
Việt Trì, Lập
Thạch (Phú Thọ)
đánh thắng giặc. Sau
có nội gián,
Lữ Gia bị thương,
phải lui quân về
tới núi Gôi thì
rơi đầu chết.
Dân lập đền thờ.
Đền Nguyệt Mại
xưa là một ngôi
đền lớn, kiến
trúc kiểu chữ Môn
hai bên có giải
vũ. Tiền đình
bảy gian, sân
có đắp voi ngựa.
Đền có năm cỗ
kiệu. Làng vào
đám ba năm một
lần. Đám hội
có lệ thi xôi
gà. Mỗi giáp
cử người nuôi gà.
Gà lễ được gọi
là "Ông gà".
Có giáp phát
(1) Có người cho rằng bài thơ này ẩn ý nơi
đây Tam Hoàng là ba vị Hoàng Tử nhà Mạc, ngũ đế là vua thứ năm đời Mạc. Thực ra
không phải vậy. Nội dung bài thơ ca ngợi cảnh thanh bình của đất Tư An sánh với
thời hoàng kim sống yên hạnh phúc như đời Tam Hoàng - Ngũ Đế của lịch sử Trung
Quốc.
động dân nuôi gà trống to, đến ngày lễ thì chọn gà để làm lễ tế thần. Gà được chọn làm lễ phải cân nặng, chân to, đầu công, mình cuốc. Gà không được cắt tiết mà phải chọc tiết lỗ nhỏ, làm lông xong thì thay phiên nhau múc nước sôi đổ lên mình gà khi nào chết thì thôi. Mỗi giáp một mâm xôi một con gà ra thi. Mâm xôi to, rền, giáp nào cũng bí mật không cho giáp khác biết. Có lần phải phá cổng mới khênh được mâm xôi vào đền . Trong nhân gian có phương ngôn:
Bánh
làng
Gôi, xôi làng Mại.
(Bánh dầy làng Gối, xôi gà làng Mại đều nổi tiếng đất Thiên Bản xưa, đều là lễ vật thờ cúng thần Lữ Gia).
Thực
dân Pháp lập bốt Đình Hương đã phá đền xây bốt. Nay đền mới trùng tu. Làng Nguyệt Mại còn đền thờ bà hàng nước, người gặp Lữ Gia khi rơi đầu chết. Đền có ba gian và một hậu cung nhỏ. Đền mới xây năm Mậu Ngọ (1918) đời Khải Định. Trong đền có đôi câu đối:
Nhất phiến trung can Côi Lĩnh tại
Thiên thu di cốt Nguyệt Giang từ.
Dịch:
Một
tấm
lòng
trung
núi
Gôi
hiển
hiện
Ngàn
thu
di cốt sông Nguyệt giữ gìn
Câu
đối này biểu dương thần Lữ Gia, đồng thời nói lên sự gắn bó giữa núi Gôi và làng Nguyệt Mại.
(Phải chăng câu đối này là của đền thờ Lữ Gia làng Nguyệt Mại cũ).
(1) Theo các cụ trong làng, ngoài việc thi mâm xôi gà, làng còn lệ
vớt đũa để dâng lên tế thần. Làng trồng một bụi tre ở đồng Vụng Chay, hàng năm
họ Dương được vinh dự nhận trách nhiệm chặt tre ở đây để vót đũa rồi mời
thợ sơn làng Hổ xuống sơn đũa. Ngoài ra trong lễ hội còn đốt cây bông (pháo
hoa).
Đền
làng Lạc Thiện có cảnh quan đẹp, thoáng và tĩnh ở phía Tây làng. Đền còn giữ được nhiều đồ thờ tự quý giá, hoành phi, câu đối trang nghiêm lộng lẫy. Đền có ba cung, làm trên gò đất cao nhìn ra sông Hùng Vương. Hai chái xây kín có vọng lâu dưới có hai vị thần tướng. Thềm cao lát đất thành khung. Ba gian giữa lòng rộng 7,5m, thềm rộng 1,65m. Cửa có chấn song con tiện, bộ cửa gian giữa 6 cánh, hai gian bên 4 cánh. Gian giữa có đặt long đình thờ, đồ thờ tự đầy đủ. Cửa võng tứ linh cỡ lớn, trên treo bức cuốn thư khảm trai làm năm Tự Đức thứ 17 (1863) "Hách quyết thanh" (Tiếng tăm lừng lẫy). Phía dưới có một bức liễn khảm trai đề 4 câu thơ của Linh Sơn Cử nhân Vũ Lương Quý làm năm Khải Định thứ 7 (1922). Bên trái có bức hoành phi "Nam đẩu bình" bút tích của cụ Nghè Cựu Hào Nguyễn Văn Tính, bên phải có bức hoành "Khí quán nhật nguyệt" (Khí tiết sáng ngời mãi mãi).
Trước
long đình có đôi hạc gỗ cao 3m, hai bên đề bát biểu lộng lẫy. Tiền đường có tới 10 câu đối của các bậc danh nho trong vùng như Tiến sĩ Phạm Văn Nghị, tiến sĩ Khiếu Năng Tĩnh, tiến sĩ Ngũ Văn Tĩnh, cử nhân Vũ Lương Quý, phó bảng Đỗ Văn Toại, cử nhân Vũ Đình Thưởng v.v... Các câu đối này đều ca ngợi nghĩa khí chống giặc Hán, bảo vệ nước Nam Việt của Thừa tướng Lữ Gia và mối quan hệ giữa đền Lạc Thiện và đền Côi Sơn đều thờ Lữ Gia, trong đó có câu đối làm đời Thành Thái (1895):
Côi Sơn danh tích do truyền cổ
Lạc thổ bao phong thuỷ tự kim
Dịch:
Danh
tích
đền
Gôi truyền tự cổ
Sắc
đền
Lạc
Thiện
mãi
ngày
nay.
Cung
trong 3 gian dọc, đồ thờ tự rất trang nghiêm lộng lẫy có khám thờ lớn trong đặt cỗ ngai có thần vị của thần Lữ Gia. Đặc biệt có đôi kiếm gỗ chuỗi chạm đầu phượng rất đẹp.
Làng Nguyệt Mại và làng
Lạc Thiện khi vào
đám thường có rước
kiệu thần giao hiếu
giữa hai đền.
Làng Đống Xuyên có đền
thờ hai vị thiên thần
là Lôi Công,
Cương Nghị và Phi
Phương công chúa. Trước bà
Phi Phương có phủ thờ
riêng. Bà là một
cung phi của vua
Lê người họ Bùi
hiệu Diệu Đức.
Bà có lộc điền
vua ban. Khi
về nghỉ tại làng,
bà đã đem ruộng
tặng cho dân làng
làm ruộng công. Khi
bà mất, dân
lập phủ thờ.
Làng có hội hoa
đăng vào đêm mồng
7 tháng 4 hàng
năm để tưởng nhớ
đền bà chúa gỗ
8/4. Hội tổ
chức thi rước đèn.
Các nhà dùng nứa
buộc thành đèn hình vuông
quả bí, ngôi sao,
quả khế hình tròn
xếp nếp đều thắp
nến. Ngoài ra
còn có đèn kéo quân
đặt ở phủ Bà. Dân
làng trống dong cờ
mở, tổ chức
tập trung ở đền
làng, tay cầm
đèn đi vòng quanh
làng theo nhịp trống,
vừa đi vừa hò
reo vui mừng rồi
về tập trung tại
phủ Bà. Dân
chọn những đèn đẹp
để chấm và có
thưởng.
Đền có 2
cung. Tiền đình
5 gian rộng là
nơi tế lễ họp
hành. Gian giữa
có bức hoành phi
'Trấn hanh
tư phúc"
(Sấm ran đem
phúc đến)(1)
Cung trong có
một hương án đời Lê
thế kỷ XVIII.
Làng Đống Xuyên và Lạc Thiện
có năm vào đám,
mùa màng thu hoạch
tốt đều tổ chức
rước giao hiếu (hai
làng này có thờ
chung một vị thần
là Cương Nghị Đại Vương).
Làng Thượng Linh
có đền thờ 2
vị tướng đời Hùng
là Uy Lôi Đại
Vương, Uy Linh Đại
Vương và Phối Đạo
Đại Vương là tướng
của Hai Bà Trưng,
đều là con cháu của thần
khai cả Trần Hinh..
(1) Trấn: Tượng trưng cho
sấm. Đền thờ Lôi Công (Tam vị Lôi Công) là thần sấm sét có sấm tức có mưa làm
cho mùa màng tươi tốt, đem phúc lộc lại cho dân. Đền dựng năm Tự Đức thứ 7
(1854) trùng tu năm Thành Thái Tân Sửu (1901)
Làng Đông Linh,
có gốc ở làng
Thượng Linh phát
triển ra nên cũng
thờ các vị thần như
ở Thượng Linh.
Làng Thượng Linh trước
có miếu thờ 2
nữ thần, nay
đưa về thờ chung tại
đền làng.
Đền Thượng Linh
có hồ rộng,
cây cổ thụ sum
suê, sân rộng,
tọa lạc tại phía Tây
làng. Tiền đình
mới được sửa sang.
Cung đệ nhị đồ
thờ tự đầy đủ,
lộng lẫy, cổ
kính. Có hương
án đời Lê,
nhiều sắc phong đời
Lê - Nguyễn.
Việc thờ thần
của các làng xã
Đại Thắng phản ánh
lịch sử lâu đời,
cư dân người Việt
từ thời Lạc Long
Quân - Âu Lạc
về khai phá vùng
biển, từ thời
Hùng Vương thứ 18
ở đất Việt Trì
- Phong Châu,
Yên Tử xuống đây
khai phá, vừa
làm nghề chài lưới sông biển,
vừa trồng lúa nước,
hoa mầu mà dựng
nên làng xã trù
phú ngày nay.
Bên cạnh các
đền miếu thờ những
người có công với
nước với dân làng,
trong các dòng họ,
từng gia đình đều
lập nhà thờ họ,
bàn thờ tổ tiên,
tìm về cội nguồn
huyết thống. Nhiều
dòng họ còn từ
đường cổ kính (nhà
thờ họ) của
Đại tông hoặc chi
phái, hàng năm
con cháu trong dòng
họ đều tập trung
lễ tổ. Đến
tiết Thanh minh có
tập tục đi tảo
mộ, các bậc
huynh trưởng hướng dẫn con
cháu nhận phần mộ
tổ tiên. Từng
gia đình có bàn
thờ cha mẹ ông
bà và người thân
hàng năm cúng giỗ.
Gia phả các dòng
họ bị thất tán
nhiều trong chiến tranh,
gia đình ly tán.
Hiện nay nhiều dòng
họ đang tìm cách
khôi phục lại.
Các dòng họ là
nhân tố tích cực để
tạo dựng làng xã.
Do đó, khi
làng tế lễ thành
hoàng làng đều có lệ
phối hưởng các vị
gia tiên dòng họ
và các vị hậu
thần có công đóng
góp với làng xã.
Đó chính là đạo
lý "uống
nước nhớ nguồn"
(ẩm thuỷ tư
nguyên) của nhân dân
các làng xã Đại
Thắng.
(1) Trước đây 3 vị thần
của làng có 3 đền thờ riêng, nay hợp tự tại đền chung.
Xóm
Phong Vinh có họ Vũ là lớn nhất. Họ có nhà thờ đại tông của bốn chi. Đây là một dòng họ có học, nhiều người đậu đạt từ đời Lê Trung Hưng thế kỉ XVII, XVIII, đồng thời cũng là một dòng họ có nhiều thầy thuốc giỏi. Nhà thờ gồm ba gian cổ kính, còn nhiều câu đối, trong đó có câu đầy ý nghĩa:
Công đốc nguy nga sơn đẩu vọng
Căn nguyên thâm cố bản chi phần
Dich:
Công
đức
sáng
ngời
như
sao
đầu
núi
Cội
nguồn
to nhánh bám chặt đất màu
Họ
còn lưu giữ được tộc phả ghi chép khá đầy đủ công tích các bậc tiền bối của dòng họ, góp phần tạo nên truyền thống tốt đẹp nhiều đời cho dòng họ.
Làng
có các họ lớn là Vũ, Phạm, Trần, Nguyễn Đô, Phạm, Bùi. Đông nhất là họ Vũ, cả bảy thôn đều có họ Vũ là một dòng họ thành đạt nhiều về khoa cử cả văn lẫn võ qua các thời đại xưa và nay. Nhiều chi họ Vũ còn tộc phả nhà thờ cổ kính. Có 4 họ Vũ, Phạm, Trần, Nguyễn, có nhà thờ Đại tông. Họ Nguyễn mới lập lại gia phả ghi chép khá đầy đủ và hệ thống nhiều đời.
Nhà
thờ Đại Tông họ Vũ (tư Vũ) nguy nga đồ sộ, đồ thờ tự trang nghiêm, còn có sắc phong, kiệu và có bia từ đời Lê Cảnh Hưng đặt ở nhà thờ cũng như nhiều bia hậu đời Lê - Nguyễn đặt ở chùa và đền. Họ Vũ có nhiều vị làm quan đời Lê Trung Hưng được phong tước hầu như Hoằng Tín Đại Phu Thái bộc tự khanh Tham đốc quân vụ Đông Trung Hầu hay Tán trị thừa chính sứ Lạng Sơn Trung Thọ hầu và đặc biệt có tướng quân Dự Mỹ bá Vũ Đình Dự làm chỉ huy sứ thông sứ Kiêm thương huyện Kim Bảng đời vua Quang Trung và Quang Toản. Các vị này có công xây dựng đền chùa ở làng, đã đúc chuông chùa Thần Quang và chùa Ngọc Tân mà văn bia và văn chuông còn ghi lại. Ngoài ra còn có vị làm quan được phong tước quận công như Vũ Phúc Năng, tứ phẩm Lang trung Vũ Công Mỹ, các tri phủ Vũ Công Hoán, Vũ Công Phúc, Công Hiệu đời Lê Trung Hưng. Chứng tỏ họ Vũ ở Cố Bản xưa là một họ lớn có tiếng tăm trong vùng. Nhà thờ còn đôi câu đối nói lên điều đó.
Sinh vi tướng hộ quốc an dân lưu danh thiên
cổ tại
Hoá hiển thánh thông minh chính trực tôn phong
vạn niên thanh
Dich:
Sống
làm
tướng
giúp
dân
giữ
nước, tên ghi
muôn thuở
Thác
hoá
thần
linh
thiêng
chính
trực, danh
tiếng ngàn đời
Làng
Thi Liệu có gần hai chục dòng họ như các họ Vũ, Phạm Đoàn Nguyễn Trần, Dư Cao Hoàng, Đoàn, Bùi, Đặng Dương Lưu. Có các nhà thờ họ Vũ, Đoàn, Phạm các họ hầu như không còn giữ được tộc phả.
Làng
Đình Hương
có 8 dòng họ Đỗ, Lê, Trần, Nguyễn, trong đó họ Đỗ là đông nhân khẩu nhất. Họ Đỗ có nhà thờ cổ kính trong một khuôn viên đẹp có tam quan, có gác đặt bia đời Lê Cảnh Hưng và tộc phả còn nguyên vẹn, lưu giữ được nhiều sắc phong đời Lê Trung Hưng. Họ Đỗ làng Đình Hương gốc từ làng Hương Nhi (Vì thế nên đặt tên làng là Đình Hương) ra đây khai phá lập trại ấp. Nhà thờ có câu đối nói lên đây là dòng họ vọng tộc.
Tiền phong Bá, hậu phong Hầu, luỹ triều sắc mệnh
Ấp xưng thần, gia xưng tổ, cổ tinh linh
Dịch:
Trước
phong bá, sau phong Hầu, các triều sắc tặng
Làng
tôn
thần,
họ tôn tổ, muôn đời sang sao
Làng
Nguyệt Mại có 15 dòng họ Đỗ Vũ, Nguyễn Phạm Trương, Dư, Trần Hồ, Lưu, Lê... Hai họ Đỗ và Vương có nhà thờ cổ kính, nhất là họ Đỗ. Họ Đỗ là một họ lớn, có nhiều người đỗ đạt cao trong đó có Phó bảng Đỗ Văn Toại. Nhà thờ có tộc phả ghi chép đầy đủ công tích các bậc tiền bối và nhiều đôi câu đối có ý nghĩa giáo dục truyền thống, ví như câu:
Tổ huấn nhất thiên lại thế bảo
Thiên hồi lưỡng mệnh thất chi xuân
Dịch:
Tổ
dạy
học
hành làm của báu
Trời
cho
hai
nhánh bảy
cành xuân
Làng
Lạc Thiện có
các dòng dọ Lưu, Nguyễn, Phạm, Vũ, Trần, Bùi, Đỗ. Họ Lưu đông nhất từ Bái Dương (Nam Trực) di cư sang đây cùng các họ lập trại, sau thành làng. Lương giáo đoàn kết trong họ.
Làng
Đống Xuyên,
vốn trước là trại, các họ Đoàn Tam giáp Hào Kiệt đổi thành họ Nguyễn, họ Bùi giáp Nhì cũng đổi thành họ Nguyễn sang đây lập trại, đã được 17 đời. Họ Phạm vốn dòng dõi Tiến sĩ Phạm Hùng ở Vân Bảng (Liên Minh) từ đời thứ 5 đổi thành họ Vũ. Đời Minh Mạng (1819-1840) dân làng thiếu thuế được ông Vũ Đức Nhận đóng thuế cho dân, dân tôn làm hậu thần. Ông Vũ Đình Hiển có công canh tân làng Đống Xuyên, soạn hương ước cho làng. Ho Vũ thành đạt nhiều về đường học hành khoa cử, phát huy được truyền thống hiếu học của cụ Nghè Hùng xưa.
Làng
Thiện Đăng theo truyền ngôn có 7 gia đình sau trở thành thất tổ gia tiên về lập ấp tại đây, làm nghề chài lưới đánh cá, hiện nay phát triển thành 15 chi họ (Nguyễn Phạm Đoàn, Đào, Đỗ, Dương, Bùi, Ngô, Đinh...) đông nhất là họ Vũ và họ Nguyễn đây cũng là làng có nhiều dòng họ khoa cử thành đạt tiêu biểu là họ Vũ, rất nhiều người làm nghề dạy học từ thời phong kiến cho đến ngày nay. Ngoài ra, các họ cũng có nhiều người làm thầy thuốc hoặc đi buôn thuốc Bắc, thuốc Nam ở nhiều tỉnh, nhất là vùng Thanh Hoá.
Làng
Đông Linh có 6 họ Trần, Đỗ, Phạm, Nguyễn. Đông nhất là họ Trần.
Làng
Thượng Linh có 4 họ Trần, Lê, Đào, Nguyễn theo Trần Hinh từ Yên Phụ (Hải Dương) dời cư về lập ấp từ đời vua Hùng thứ 18, sau này có thêm họ Đoàn và họ Đỗ.
Việc
tương trợ, giúp đỡ nhau trong cuộc sống thường ngày nhằm xoá đói giảm nghèo, nâng cao tinh thần tương thân tương ái, động viên khuyến khích con em học tập, thờ phụng tiên tổ để phát huy truyền thống là những nét đẹp trong văn hoá dòng họ, được bảo tồn lâu đời ở các làng xã Đại Thắng. Con cháu đi làm ăn xa quê đều luôn nhớ về quê hương, gia tộc, thường ngày giỗ tết đều về thăm.
Hoà
nhập với đời sống tinh thần tín ngưỡng dân gian, các tôn giáo phương Đông được truyền bá lâu đời và ngày càng sâu sắc vào các làng xã người Việt, trong đó có vùng quê Đại Thắng. Đạo Phật, đạo Lão và đạo Nho được lần lượt truyền đến, thâm nhập vào đời sống xã hội của các làng xã và sau cùng là đạo Thiên chúa từ phương Tây tràn vào.
Đạo
Phật phát triển sớm nhất, hầu như tất cả các làng đều có chùa. Chùa Nam Lai và chùa thôn Nhất tương truyền được lập từ đời Lý. Nhiều chùa còn dấu ấn được xây dựng từ đời Lê Trung Hưng như chùa Ngọc Tân ở Đồng Nhì, chùa Thần Quang ở Đông Nhất, chùa Ngọn ở Nguyệt Mại, chùa Diệu Nghiêm ở Tư An, chùa Thần Quang ở Thi Liêu.
Chùa
Ngọc Tân ở Đồng Nhì làng Cố Bản, thường gọi là chùa Bến Ngọc, nằm ngay bờ sông Đào có xây bến gạch, thuyền ghé bến vào chùa thuận lợi.
Chùa
có bức hoành phi “Ngọc Vi Tân" (Ngọc là bến" Có đôi câu
Ngọc hướng hôn cù khai giác lộ
Tân tòng thần hải chướng hồi lan
Dịch:
Ngọc
chuyển
đường
mê sang đường sáng
Bến
theo
triều
sớm
cản
sóng
to
Chuông
chùa Ngọc Tân treo trên gác chuông tam quan nguy nga lộng lẫy. Chuông được làm từ năm Cảnh Thịnh Bính Thìn (1796) đời Tây Sơn, là một trong 7 chuông đời Tây Sơn còn lại trên đất Vụ Bản. Bài minh của chuông có đoạn khắc:
"Thiên Trường phủ, Nam Chân huyện, Cổ Đế xã, Nhị thôn, Hội chủ Chỉ huy sứ kiêm Trương huyện Kim Bảng Dự Mỹ bá Vũ Đình Dự Từ khi xây lầu đến nay, xã Cổ Đế huyện Nam Chân đã là một ấp lớn vậy. Bảy thôn đều có xây chùa. Mười năm trước đây, trong ấp có Vũ tướng công nguyên là Tán trị Thừa chính sử Lạng Sơn đã làm lầu gác để chuông và đã đúc 2 quả chuông treo ở chùa Thần Quang (thôn Nhất) và
chùa Ngọc
Tân". ở chùa Ngọc Tân còn có bia hậu của vợ chồng vị Thừa chính sứ họ Vũ này.
Làng
Bái có chùa Nam Lai, tương truyền từ đời Lý, nay mới trùng
tu, có câu đối cũ.
Nam Lai tư biển linh kim cổ
Bái thượng thôn hương hỏa phụng thờ.
Làng Nguyệt Mại có chùa Ngọn (Ngọn Linh tự) còn hệ thống Phật cổ kính và hệ thống bia hậu đời Lê Vĩnh Tộ, Cảnh Hưng và Gia Long (Thế kỷ XVII-XIX). Bia Vĩnh Tộ năm thứ 10 (1628) là một tấm bia đá chạm khắc đẹp của vị tướng thần Vũ Công Phúc và Hoàng Thị Lan người làng Thời Mại cúng 4 mẫu ruộng vào chùa. Bia Cảnh Hưng năm thứ 15 (1754 do Tiến sĩ Thanh Oai Ngô Thì Sĩ soạn, ghi Thái giám Hoàng Thọ Bá Đỗ Công Hoàng người làng Thời Mại cúng vào chùa 50 lạng bạc. Bia hậu thần khắc chạm đẹp, to có nhà bia giữa sân chùa do 1 vị Huấn đạo đời Lê soạn năm Gia Long Giáp Tí (1804).
Bầu
hậu là một hình thức cúng tiền ruộng vào chùa của những người không có con trai để nhà chùa thắp hương cúng giỗ. Nhiều chùa có lệ cúng cô hồn chúng sinh tại Hàn lâm sở, hàng năm vào rằm tháng Giêng và tháng 7, thể hiện lòng nhân từ bác ái của Phật tử.
(1) Chuông còn ghi: "Hưng công chư vị khâm sai sơn Nam xứ Trấn thủ Đại Đô đốc Thọ Lộc hầu Nguyễn Văn Thọ, Cung phiên tự nội thống trung quân Lương Thuật, Đô đốc Nguyễn Lộc Hầu, Nguyễn Văn Lộc góp mỗi người 20 quan Hộ bộ hữu thị lang Nghĩa
chinh hầu Hồ Hữu Tình cúng một chiêng đồng, Tri hộ tiền. bộ Hữu Thị Lang Giảng hoài hầu Nguyễn Cống Huấn cúng 25 quan, Quảng Đông tỉnh, Quảng Châu phủ Tăng Thành huyện Trần Huy Trác cúng 20 quan..." (Bùi Văn Tam - Thông báo khảo cổ học năm 1995 - Hà Nội). Qua nội dung bài minh, ông Vũ Đình Dự người làng Nhì xã Cố Đế, đồng thời cho ta biết chùa Ngọc Tân rất nổi tiếng ở xứ Sơn Nam lúc đó, các quan đầu tỉnh và cả Hoa Kiều cũng cúng tiền đúc chuông chùa.
Làng
Thi Liệu có Chùa Thần Quang là ngôi chùa cổ gần đền thờ Phạm Bạch Hổ. Hệ thống tượng Phật cổ kính có giá trị nghệ thuật cao. Chùa có gác chuông đẹp có chuông đồng to đời Tự Đức.
Làng
Phong Vinh có chùa Tây Phúc Tự ngay cạnh đền có chuông đồng cỡ lớn đúc năm Thành Thái Kỷ Hợi (1899). Hệ thống Phật đầy đủ.
Làng
Lạc Thiện có chùa Đồng Lĩnh (thường gọi là chùa Đồng). Trước khi lập làng đã có chùa Đồng, sau tôn tạo thêm. Chùa có đôi câu đối.
Đông lĩnh tòng vẫn khai giác lộ
Tây thiên tuệ nhất chiếu toà tâm
Dịch:
Đông
Lĩnh
theo
mây
mở đường sáng
Trời
Tây rạng rỡ chiếu lòng thiền
Làng
Thiện Đăng có
chùa Quang Minh là ngôi chùa cổ mới được trùng tu, có
chuông đồng
lớn đúc năm Kiến Phúc nguyên niên (1884), hệ thống tượng Phật đầy đủ, cao to, đẹp là tượng Cửu long 2 tầng. Có bát hương đời Mạc, có tượng ông Thiện, ông ác đều đẹp, cưỡi lân chân lại đặt lên 2 con cóc. Đặc biệt có tấm bia đá chạm khắc đẹp vào năm Dương Hoà thứ nhất (1635) nói rõ việc trùng tu Phật tượng của chùa Quang Minh ở thôn Thiện Đăng xã Thời Mại.
Chùa
Diệu Nghiêm
nằm trên gò đất cao làng Tư An. Chùa tuy nhỏ được trùng tu nhiều lần, nhưng có hệ thống tượng Phật đầy đủ. Có một tượng Phật nằm trên bệ chạm
lá lật. Tượng có tóc soắn ốc, mặc áo vàng, chân trái co lại, tay trái buông thoải mái, tay phải đặt dài trên chân phải duỗi. Tượng chạm khắc đẹp thanh thoát.
Thôn
Đồng Lạc (Thôn Nội) có chùa Nội Quang là ngôi chùa nhỏ ven đê, hệ thống tượng phật đầy đủ nhưng nhỏ. Chùa trước có sư trụ trì đã Viên Tịch, hài cốt ở tháp Lạc Dương trước chùa. Chùa còn đôi câu đối cổ:
Luyến cố hữu tình siêu khổ hải
Từ bi vô lượng cứu quần sinh.
Dịch:
Tình
nghĩa
thân
thương
dát
díu
qua
bể khổ
Từ bi hỉ xả rộng mở cứu chúng sinh.
Đạo
Lão mang tính chất phù thuỷ, dùng ma thuật để trừ ma tà, chữa bệnh vẫn còn rải rác ở một số làng xã Đại Thắng. Đây là tàn dư của đạo Lão, một số thầy cúng, thầy phù thủy còn lập đền thờ ở nhà. Một điều đặc biệt là làng Thi Liệu vẫn còn điện thờ của Nội Đạo Tràng, mang tính chất đạo giáo của Pháp sư Trần Toàn lập từ thế kỷ XVII. Nội đạo tràng ở Thi Liệu theo phái Pháp Nên Bắc Kỳ được một tri huyện họ Vũ làng Thi Liệu đưa từ Hải Dương về đây lập điện thờ từ thế kỷ XVIII. Đàn tràng này có thờ các tổ sư của Nội Đạo Tràng (Độc Cước tiên sinh, Tam Danh thần tướng và Huyền Đàn tôn ông). Ngoài ra còn thờ cả Trần Hưng Đạo và Bà chúa Liễu Hạnh. Đây là một hình thức tín ngưỡng dân gian, một số người còn sùng tín, nhưng dễ có hiện tượng mê tín dị đoan, cần có sự quan tâm của Mặt trận Tổ quốc và chính quyền.
Tín
ngưỡng Mẫu ở các làng xã Đại Thắng cũng rất đậm nét, mang nhiều ý nghĩa tốt đẹp phong vinh, tôn kính những người phụ nữ có công với nước với dân. Làng Thị Liệu thờ bà Quốc Mẫu Thái Đường Trưởng công chúa đời Trần có công mở mang khai phá vùng Miễn Hoàn. Làng Đống Xuyên thờ bà cung phi họ Bùi đời Lê đã cho dân ruộng đất để cày cấy. Làng Phong Vinh, ngoài việc thờ Thục An Dương Vương, còn thờ nàng Cả, Nàng Hải và Nàng Ba. Lại có miếu thờ nữ thần thuộc hệ thống Diêu Trì thuỷ thần. Làng Nguyệt Mại có đền thờ bà hàng nước chỉ đường cho Thừa tướng Lã Gia. Làng Thiện Đặng thờ Tứ Vị Hồng Nương là nữ thần Nam Hải Càn Nương thờ ở đền còn có công giúp 2 tướng Đinh Thuyên, Nguyễn Phụng là tướng nhà Trần, người làng Thiện Đăng, đánh thắng giặc Toa Đô ở cửa biển Càn Hải. Phủ thờ Bà Càn Hải Đại Vương còn lưu giữ nhiều đồ thờ tự quý như đôi hạc gỗ cao tới 3m đứng trên rùa đá, kiệu long đình và kiệu bát cống, riềm cửa võng loại lớn, cỗ ngai nhà Lê có mây hỏa đao uốn lượn quanh rồng, có sắc phong từ đời Lê Cảnh Hưng là Nam Hải Quốc Mẫu Vua Bà. Có đôi câu đối làm năm Tự Đức Kỷ Mão (1879) ca ngợi bà:
Nam quận ngật sùng từ linh tích giao hàm
Càn
Hải
nguyệt
Bắc thiên chung tủ khí tinh tâm viễn thụ
Tống triều phong
Dịch:
Đất Nam sừng sững miếu thờ dấu tích linh thiêng lồng lộng
bóng trăng nơi Càn Hải
Trời Bắc mông lung linh khí tấm lòng trinh bạch gió thổi cây
đưa
tự Tống Triều.
Làng
Cố Đế trước có miếu thờ riêng ba nữ tướng của Hai Bà Trưng (Ngọc phả còn lưu giữ tại Viện nghiên cứu Hán Nôm - Hà Nội). Nay miếu không còn nữa. Đền thờ làng Phong Vinh có thờ ba Nàng Cả, nàng Hai và nàng Ba phải chăng là 3 vị nữ tướng này.
Làng
Riềng có nữ tướng Lê Thị Hoa, sự tích còn lưu truyền và ghi bia lại đền thờ của bà ở làng Nga Thiện huyện Nga Sơn Thanh Hoá. Làng trước đây có miếu thờ Hai Bà. Phải chăng đó là hai chị em bà Lê Thị Hoa có công mở chợ Riềng để tụ hợp nghĩa quân chống giặc Hán đầu Công nguyên.
Ngoài
ra các chùa
đều có bàn thờ hoặc phủ thờ Mẫu Liễu Hạnh theo kiểu tiền Phật hậu mẫu theo truyền thuyết Mẫu Liễu Hạnh người làng Vân Cát xã An Thái (nay là Tiên Hương, Vân Cát xã Kim Thái, Vụ Bản). Bà là một người con gái tài sắc vẹn toàn, ba lần sinh hoá, thể hiện lòng hiếu nghĩa, tình yêu chung thuỷ và thiện tâm cứu thế tiêu biểu cho nhiều đức tính của người phụ nữ Việt Nam, nên được người đời sùng kính phụng thờ.
Đạo
Nho thời phong kiến rất hưng thịnh, nhất là từ đời Lê thế kỷ XV trở về, đã thâm nhập sâu sắc vào đời sống tinh thần của nhân dân, góp phần xây dựng đạo đức và nếp sống quy củ ở làng xã Đại Thắng Những đạo lý về nhân nghĩa lễ trí tín, hiếu đễ, tôn sư trọng đạo, dung công ngôn hạnh... có tác dụng tích cực trong đời sống nhân dân, xây dựng sự đoàn kết trong cộng đồng làng xã, phù hợp với những phong tục tập quán xa xưa còn được giữ gìn và phát triển. Nhưng lễ giáo đạo Nho cũng có phần ràng buộc con người vào tam cương ngũ thường trật hẹp, gò bó, mất tự do của chế độ phong kiến. Làng nào cũng có văn chỉ thờ Khổng Tử, có Hội tư văn tập hợp những nhà Nho, các bậc khoa bảng hàng năm cúng tế, bàn bạc xây dựng phong hoá của xóm làng. Việc học hành khoa cử ở các làng xã thời phong kiến khá phát đạt, có thể sánh vai cùng đất học Cao Phương, Cựu Hào, Vĩnh Lại, An Thái của đất Thiên Bản xưa như các làng Nguyệt Mại, Cố Bản có nhiều bậc khoa cử thành đạt. Trong số 16 Tiến sĩ, Phó bảng đời Lê - Nguyễn, Đại Thắng có 1 vị Phó bảng là Đỗ Văn Toại người làng Nguyệt Mại. Ông Đỗ Văn Toại sinh năm Nhâm Thân (1872) trong một gia đình có học, nhiều người đỗ Cống sĩ (cử nhân) đời Lê Trung Hung.
Đỗ
Văn Toại đậu cử nhân khoa Canh Tí (1900) cùng với người anh em họ là Đỗ Đức Long. Năm sau thi Hội vì mẹ mất ông phải bỏ kỳ thi Đình. Năm Đinh Mùi (1907) niên hiệu Thành Thái, ông thi Hội đậu Phó Bảng, là người có học vị khoa cử cao nhất của làng Nguyệt Mại và xã Đại Thắng thời đó. Theo tộc phả của họ Đỗ làng Nguyệt Mại, thuỷ tổ Đỗ Khánh đậu Hương cống năm 1561, làm quan tri huyện 18 năm. Con trai Đỗ Khánh Trai là Đỗ Văn Trung (1561-1645). Năm 1582 ông Trung là giám sinh Quốc Tử Giám. Năm 1583 ông đậu Hương cống, thi Hội trúng tam trường. Năm Giáp Thân 1584, vua mở khoa Hoành từ, ông trúng thức (gia phả có ghi ông trúng Tiến sĩ ân khoa Giáp Thân). Ông được mời vào cung làm Hàn lâm Thị giảng dạy học cho Đông cung Thái tử. Con của ông là Đỗ Văn Trí cũng đậu Hương cống năm 18 tuổi. Đời thứ năm, ông Đỗ Công Minh đậu cử nhân võ. Tiếp các đời sau, các ông đều học hành thành đạt như Đỗ Văn Cồn, Đỗ Văn Ức, Đỗ Văn Giảng đều làm Huyện thừa (Tri huyện). Ông Đỗ Văn Cần đã tặng làng Nguyệt Mại 5 sào ruộng để làm ruộng học, ai học giỏi được nhận ruộng làm lấy tiền để học lên. Ông cũng là người đúc tượng Phật và chuông đồng cho chùa làng.
Họ Nguyễn làng
Nguyệt Mại có nhiều
người đậu tú tài như
Nguyễn Đình Dự,
Nguyễn Đình Cơ,
Nguyễn Văn Phan, có
2 vị làm Huyện thừa (Tri
huyện).
Làng Đình Hương
có họ Đỗ và
họ Lê thành đạt.
Họ Đỗ giàu có, cho
con cái học hành,
nhưng nhiều người phát
về đường võ cử.
Ông Đỗ Hữu Nho
được phong An liệt
tướng quân Mai Trung
Bá. Ông Đặng Hữu
Tuấn làm đội chỉ huy sứ
Vũ Huyên tướng quân Thân
vũ tứ vệ quân vụ
sự Tham đốc Thời
Trung Hầu. Ông
Đỗ Hữu Tín được phong Thiêm
sự Hoằng Tín đại
phu, có công
tổ chức dân làng đánh
giặc cướp, được phong Vũ
Huân tướng quân Đình Thọ Hầu.
Em là Đỗ Hữu Nhâm đã
từng đi sứ nhà Thanh,
làm Tri phủ phủ
Thượng Hồng (Hải
Dương). Họ
Lê cũng có tổ
tiên vốn người xã
Kiến Trung (Thanh
Hoá) dời cư ra
Đồng Côi rồi sang
Đình Hương, là Lê Xuân
Trí, đậu cử
nhân võ làm chức
Đô Uý đời Lê
Trung Hưng. Sang
đời Nguyễn có ông
Lê Xuân Thành đậu
cử nhân khoa Ất
Mão (1855)
làm quan tới chức
tri phủ Thường Tín.
Ông là người soạn
tộc phả họ Lê
năm Tự Đức thứ
9 (1856).
Sau này họ Đỗ
và họ Lê vẫn tiếp nối
được truyền thống hiếu
học của tổ tiên,
có nhiều người học
hành thành đạt.
Làng Thiện Đăng
có nhiều người buôn
thuốc Bắc và dạy học,
nên việc học hành
cũng phát đạt.
Đời Lê Trung Hưng có ông
Vũ Văn Tạo đậu
Hương cống và đời
Nguyễn có Vũ Văn
Thanh đậu Tú tài.
Làng Thượng Linh có
ông Đoàn Quán Thông
đậu Thám Hoa đời
Lê (theo sách
Nghệ An chí)
làm quan tới chức
Thượng thư bộ
Lễ, Đô đài
Ngự sử Đông các
Đại học sĩ).
Làng Thi Liệu
đời Lê cũng có nhiều
người thành đạt trên
đường khoa cử.
Ông Đoàn Ninh Thượng
đậu Hương cống.
Ông Cao Đức Nhuận
đậu Hương cống,
giỏi về nghề thuốc
được vời vào cung
làm tới chức Tướng
sĩ lang y viện
y phó chức Nhuận
Nghĩa Nam. Họ
Đoàn còn có 2
vị tú tài.
Họ Vũ có một
vị đậu Hương cống,
làm chức huyện thừa
ở Hải Dương đã
đưa Nội Đạo Tràng
phái Pháp Nên Bắc
Kỳ về làng Thi
Liệu. Đời Nguyễn
có ông Đoàn Đình Tiến
đậu cử nhân khoa
Giáp Tuất đời Tự
Đức năm thứ 27 (1874)
Làng Cố Đế
đời Lê - Nguyễn
đều có nhiều người thành đạt trên
đường khoa hoạn.
Ở Phong Vinh,
đời Lê Vĩnh Thịnh
năm thứ 14 có ông
Vũ Trung Thực thi
Hội trúng tạm trường (Hương
cống thi Hội)
được phong làm
(1) Trong Đăng khoa lục và
văn bia tiến sỹ không có tên Đoàn Quán Thông đậu Thám hoa. Có khả năng ông chỉ
đậu Hương cống và có qua khoa thi hoành từ rồi làm quan trọng triều
Huyện thừa Nga Sơn.
Ông Vũ Đình Giảng là
hương cống ở Quốc
Tử Giám giỏi võ
làm Ngũ dũng hiệu
chỉ huy Đồng tri
Phấn Vũ Hầu,
sau làm huyện thừa.
Các ông Vũ Trọng
Thời, Vũ Trọng Hân đều
là hương cống,
làm tri huyện.
Cụ Vũ Trọng Cơ đi
thi đậu 6 khoá
Tú tài rồi mới
đậu cử nhân đời
Nguyễn (Dân
thường gọi là
cụ Mẫu Cơ).
Ông Vũ Khắc Hiệu đậu
cử nhân năm Giáp Tuất (1874)
tại trường thi Nam
Định, làm quan tri
huyện. Ông Vũ
Khắc Tiệp, đậu cử nhân
khoa ất Mão (1915
đời Duy Tân lúc
mới 23 tuổi,
làm Huấn đạo).
Số người đậu tú
tài cũng rất nhiều.
Ngoài ra còn có
nhiều võ tướng.
Đời Lê có Tướng
sĩ lang cục Thị vệ
Vũ Đình Viên,
Thị vệ cục Cai
phó Vũ Đình Chuân.
Đời Nguyễn có lãnh
binh Vũ Trọng Lang
và lãnh binh Vũ
Trọng Đức.
Làng Bái cũng
có nhiều người đậu đạt.
Đời Lê Trung Hưng
có hai người đậu
Hương Cống là Vũ Trần
Thiện và Vũ Trần
Lệ. Đời Nguyễn
có ba người đậu
tú tài là Vũ Quán,
Vũ Mận và Vũ
Mậu.
Làng Cố Bản
đời Lê Nguyễn có
nhiều người học hành
thành đạt cả văn
lẫn võ. Đời Lê
có quận công Vũ
Phúc Năng, Thừa
chính sứ Lạng Sơn
Chận Thọ hầu,
Tứ phẩm Lang Trung Vũ
Công Mỹ, hai
vị hương cống là
Tri phủ Trà Lân
Vũ Công Phác,
Tri phủ Thuận Thành
Vũ Công Hiệu, các sinh đồ
Vũ Đình Đài và Vũ Đình
Bá. Đời Nguyễn
có ông Vũ Đình Hoán
thi hương khoa Tân Mão
(1831) đời
Minh Mạng năm thứ 12
tại trường thi Nam
Định, đỗ cử
nhân, làm tri phủ An Nhân và ông Vũ
Duy Ty thi hương
khoá Kỷ Dậu (1909) đời
Duy Tân năm thứ 2, đậu
cử nhân lúc 28
tuổi. Ngoài ra
còn có nhiều Nho sinh
các trường phủ, trường
tỉnh, nhiều vị do
được học hành ở
nhà dạy học hoặc bán thuốc, chữa
bệnh cho dân.
Làng Đống Xuyên có
họ Vũ vốn là dòng dõi
Tiến sỹ Phạm Hùng
ở Vân Bảng,
di cư sang đây
đổi sang họ Vũ.
Đời nào cũng có người
học giỏi, là
thầy học của làng.
Thời Pháp thuộc ông
Vũ Đình Hiển giỏi
cả chữ Nho và
chữ Pháp, khi
về hưu trí đã
soạn hương ước cho
làng, tổ chức
canh tân, làm
được nhiều việc lợi
ích cho làng,
chống cường hào áp
bức. Con ông
là Vũ Trọng Đạt
đậu Cử nhân Văn chương
em ông Đạt là
Vũ Đình Quý,
giỏi cả chữ Hán
và tiếng Pháp,
làm phiên dịch Toà
Khâm được phong Hồng
lỗ Tự khanh Trung
Thuận phu Hàn Lâm
Thị độc học sĩ.
Nhìn chung,
trong điều kiện đồng
chiêm trũng, sống
ở vùng sông nước,
mà có nhiều người
học hành đậu đạt,
thật là một vùng
đất học. Đã
từ lâu, ông
cha đã biết tìm
cách vươn mình thoát
khỏi đói nghèo bằng
con đường học vấn.
Truyền thống đó
đang được phát huy
trong chế độ mới.
Đạo Thiên chúa
phát triển không nhiều
ở Đại Thắng,
chỉ có 12 gia
đình ở Lạc Thiện
theo đạo Thiên chúa,
có lập một nhà thờ nhỏ
thuộc xứ đạo Đại
Lại, làm từ
năm 1911. Thôn Đồng
Hoà (Thi Liệu) có 8
người theo đạo Thiên
chúa nhưng không có nhà thờ.
Tôn giáo phật
Lão Nho không có
sự bài xích mà đồng
nhận, nương tựa
vào nhau, kết
hợp với tín ngưỡng
dân gian làm giàu thêm
cho cuộc sống tinh
thần ở cộng đồng
dân cư các làng xã,
Thiên chúa giáo cũng
vậy, do có
giáo lý nặng về
sự bình đẳng bác
ái, thương yêu lẫn
nhau, không có
sự xung khắc giữa
lương và giáo, góp phần
vào sự đa dạng
nền văn hoá,
kiến trúc và nếp
sống ở làng xã.
Mặt khác, trình
độ giác ngộ của
nhân dân ngày càng
cao và chính sách đại
đoàn kết dân tộc,
tôn giáo của Đảng
và Nhà nước làm tăng
thêm sức mạnh đoàn
kết dân tộc,
tự do tín ngưỡng
và không tín ngưỡng,
nên các hiện tượng mê
tín dị đoan không
còn nhiều tác động.
Nhiều thuần phong
mỹ tục và các
sinh hoạt văn hoá
xã hội lâu đời
vẫn được duy trì
bền vững trong các
làng xã, có
tác dụng củng cố
đạo lý làm người
và những giá trị luân
thường, nếp sống
đạo đức phẩm hạnh
con người trong gia đình
và ngoài xã hội
trên cơ sở tình
nghĩa trong xóm ngoài làng,
sống tương thân tương
ái, tôn trọng
lẫn nhau, có
tôn trọng trật tự
giữ gìn bình yên
trong thôn xóm,
hoà hảo trong cuộc
sống, hiếu thuận
trong gia đình.
Những điều này được
nhân dân đồng thuận
tạo thành những khoán
ước, tục lệ
được quy định trong
các hương ước của
từng làng.
Nét chung,
các làng sinh hoạt
văn hoá tinh thần
tại đình làng vừa
mang tính chất tín
ngưỡng, vừa vui
chơi thoải mái tinh
thần, hàng năm
có lễ hội.
Vào đám, lễ
vật tế thần đơn giản,
mang nặng tính chất
của vùng quê nông nghiệp
(xôi gà, xôi
bánh, xôi chè,
hoa quả, xôi
lợn). Trâu
bò rất quý,
"con trâu là đầu cơ nghiệp"
nên lễ vật bằng
trâu bò không có
nhiều). Làng
vào đám, có nơi
gọi là khánh hạ,
có nơi gọi là
kỳ phúc, mang
ý nghĩa vui mừng
thắng lợi của mùa
màng năm trước,
cầu phúc cho vật
thịnh, dân an,
mùa màng tươi tốt
cho năm mới này.
Trò chơi thì rất
phong phú, mang
tính chất dân gian,
như làng Đình Hương
có thi chọi gà,
làng Thi Liệu thổi
cơm thi, làng
Riềng thi nuôi lợn
béo để tế thần,
thi nuôi cá lớn
để làm cỗ ... Vật
võ là hình thức vui
chơi phổ biến.
Làng nào cũng tổ
chức rước kiệu tế
thần tập trung nhất là
làng Cố Đế,
bảy thôn đều rước
kiệu về đình làng để tế
thần. Làng Thi
Liệu có múa rồng,
là một trong ba làng có
đội múa rồng của
huyện Vụ Bản. Những năm
hội lớn, làng
Thi Liệu và Cố
Đế thường tổ chức
đua thuyền trên sông.
Hội khánh lão,
khao lão thường tổ
chức tại đình làng.
Các cụ ông tuổi 60,
70, 80, 90
đều tổ chức khao
lão. Các cụ
cao niên 80, 90,
100 tuổi đều được
dân làng đưa võng
điều rước ra lễ tại
đình làng, vui chơi
ca hát, chúc rượu thọ,
chia quà bánh,
uống rượu mừng thọ.
Tổ chức mừng thọ
chu đáo, trang
nghiêm và vui
vẻ, có bài
bản nhất là làng
Thị Liệu (có văn
tế, văn thơ
chúc thọ, văn
thơ đáp từ dạy
bảo con cháu).
Đây là một nét văn
hoá rất đẹp cần
được khôi phục.
Theo các hương
ước, tục lệ
hạ điền, thượng
điền, thường tân
(cơm mới)
làng nào cũng có
thường theo tục
lệ chung phản ánh
sâu sắc tín ngưỡng
nông nghiệp mang bản
sắc dân tộc cổ
truyền ở vùng
đồng bằng sông Hồng.
Việc tổ chức
đám tang, đám
cưới đều chu đáo,
thân tình, thể
hiện sâu sắc tình
làng nghĩa xóm,
vui buồn có nhau.
Tang lễ tổ
chức dựa trên tình
nghĩa trong họ ngoài
làng, giúp đỡ
nhau, thương nhớ
nhau khi người thân đi
vào cõi vĩnh hằng,
với ý nghĩa sâu
xa "nghĩa tử
là nghĩa tận".
Theo hương ước,
các đám tang diễn
ra ít bị ràng buộc
vào những thói tục
lãng phí, phân
biệt đẳng cấp và
những tập tục phiền phức,
tuỳ theo khả năng
tang chủ mà tổ
chức, dân làng
không bắt buộc theo
một lệ chung.
Trong việc tổ
chức đám cưới cũng
vậy, dân làng
cho đó là ngày vui
của thôn xóm,
của họ hàng bà
con đều đến dự
chung vui. Nhà
nghèo thì miếng trầu
bát nước, gia
đình khá giả thì
vui chén rượu mừng.
Lệ cheo họ,
cheo làng không quá
nặng nề mà có
ý nghĩa xây dựng
thôn xóm, dòng
tộc lễ rước dâu
vừa trịnh trọng,
vừa vui vẻ,
rộn ràng tiếng cười
nói chúc tụng.
Tuy nhiên, dưới
chế độ phong kiến nạn đa thê,
nạn tảo hôn,
bức hôn vẫn còn nặng
nề.
Các Hương ước cũng
chú trọng nhiều đến việc
bảo vệ sản xuất trong làng,
xử lý nghiêm những
trường hợp trâu
bò, vịt giống
phá hoại sản xuất,
xử phạt nghiêm những
tuần định coi đồng,
coi đê mà bị
đê hỏng không phát hiện,
đồng nước bị tháo
cạn hoặc bị làng khác
tháo nước ngập làng mình,
đồng thời xử phạt
đích đáng người dân
nào tháo trộm nước của
nhau, hoặc xử phạt những
ai không tham gia
đắp đường, đào đắp
mương máng kênh ngòi
theo quy định.
Hương ước cũng chú
trọng đến việc giữ
gìn an ninh trật
tự thôn xóm, xử
phạt nghiêm những kẻ
trộm cắp đánh chửi nhau,
vô lễ với người
trên, con cái
không hiếu thuận với ông
bà, cha mẹ,
đồng thời khen thưởng
xứng đáng những người
bắt được trộm cướp
trong làng, bị
thương thì làng
chăm sóc chu đáo.
Hương ước nhiều làng
rất quan tâm đến việc
khuyến học khuyến
tài, quy định
tổ chức đón rước,
khao mừng các vị
tân khoa về làng
theo thứ bậc rõ
ràng(2).
Các làng xã Đại
Thắng có bề dầy lịch
sử nên bảo tồn nhiều
nét đẹp văn hóa,
nhiều thuần phong mĩ
tục, nhiều tín ngưỡng
cổ truyền mang bản
sắc dân tộc,
đề cao ý thức
tôn trọng và biết ơn tổ
tiên và các bậc tiền bối
có công với nước
với dân. Các
tôn giáo Phật, Lão,
Nho sẵn sàng đồng
thuận, hòa hợp, đoàn
kết, tạo nên
cảnh hòa mục, tương
thân, tương ái, hướng
thiện trong cộng đồng
làng xã. Việc học hành khoa cử
trong ùng đồng chiêm
trũng vẫn có nhiều
tiến bộ. Nhiều gia
đình, dòng tộc
đã hướng cho con
cháu chuyên cần học
tập để vượt nghèo,
vượt khó, vươn
lên số phận.
Những truyền thống văn hòa đó, ngày
nay dưới chế độ xã
hội chủ nghĩa,
đang được phát huy
việc học.